Bệnh do Loa loa

(Bệnh giun chỉ Loa loa; Bệnh giun mắt châu Phi; Sưng Calabar)

TheoChelsea Marie, PhD, University of Virginia;
William A. Petri, Jr, MD, PhD, University of Virginia School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 1 2025

Bệnh do Loa loa là một bệnh nhiễm giun chỉ Loa loa. Các triệu chứng bao gồm phù mạch khu trú (sưng Calabar) ở da và sự di chuyển dưới kết mạc của giun trưởng thành. Việc chẩn đoán bằng cách phát hiện ra những vi ấu trùng trong máu ngoại vi hoặc nhìn thấy những con giun di chuyển qua mắt. Điều trị bằng diethylcarbamazine.

Nguồn chủ đề

Bệnh loiasis chỉ có ở vành đai rừng mưa ở tây và trung Phi. Con người là vật chủ tự nhiên duy nhất được biết đến của ký sinh trùng Loa loa.

(Xem thêm Tiếp cận bệnh ký sinh trùngTổng quan về nhiễm giun chỉ.)

Sinh lý bệnh của bệnh do Loa loa

Vi ấu trùng Loa loa được truyền qua ruồi Tabanid đốt vào ban ngày (Chrysops [ruồi hươu]). Ấu trùng phát triển thành giun trưởng thành ở mô dưới da của vật chủ; con cái dài 40 đến 70 mm, và con đực dài từ 30 đến 34 mm. Giun trưởng thành sản sinh ra vi ấu trùng. Giun trường thành di chuyển trong các mô dưới da và dưới kết mạc, và các vi ấu trùng lưu hành trong máu. Ruồi bị nhiễm khi nuốt máu từ vật chủ trong ngày (khi mức độ vi ấu trùng là cao nhất).

Đôi khi, nhiễm trùng gây ra bệnh cơ tim, bệnh thận, hoặc viêm não. Tăng bạch cầu ái toan là thường gặp nhưng không đặc hiệu.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh Loiasis

Hầu hết những người bị nhiễm không có triệu chứng.

Nhiễm trùng có thể tạo ra các vùng phù mạch (sưng Calabar) phát triển ở bất cứ đâu trên cơ thể nhưng chủ yếu ở tứ chi; chúng được cho là phản ánh phản ứng quá mẫn cảm với các chất gây dị ứng do giun trưởng thành di chuyển tiết ra. Ở người bản địa, tình trạng sưng tấy thường kéo dài từ 1 ngày đến 3 ngày; ở du khách, tình trạng này xảy ra thường xuyên và nặng hơn. Giun cũng có thể di chuyển tới dưới mắt. Việc di chuyển này có thể không đáng lo ngại, nhưng tổn thương mắt còn lại là không phổ biến.

Bệnh thận thường biểu hiện như protein niệu có hoặc không có tiểu máu nhẹ và được cho là do sự tích tụ phức hợp miễn dịch.

Bệnh não thường nhẹ, với các triệu chứng thần kinh trung ương không rõ ràng.

Chẩn đoán Loiasis

  • Quan sát một con giun trưởng thành di chuyển dưới kết mạc mắt

  • Xác định một con giun trưởng thành được lấy ra khỏi mắt hoặc da

  • Xác định và định lượng vi ấu trùng trong máu bằng kính hiển vi hoặc PCR định lượng

nên nghi ngờ Loiasis ở những người nhập cư hoặc những người đi du lịch có tiền sử bị phơi nhiễm trong một vùng lưu hành và những người có biểu hiện giun mắt, nốt sưng Calabar, hoặc tăng bạch cầu ái toan ngoại biên không giải thích được.

Thỉnh thoảng, chẩn đoán loiasis được xác nhận bằng cách quan sát giun trưởng thành di chuyển dưới kết mạc hoặc bằng cách xác định giun sau khi nó được lấy ra khỏi mắt hoặc da.

Kính hiển vi phát hiện vi giun chỉ trong máu ngoại vi thiết lập chẩn đoán; cần định lượng số lượng vi giun chỉ lọc trên một ml máu. Các mẫu máu nên được lấy từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều, khi mức vi giun chỉ là cao nhất.

Nhiều xét nghiệm huyết thanh học tìm kháng thể không phân biệt Loa loa từ các bệnh nhiễm giun chỉ khác. Các xét nghiệm kháng thể đặc hiệu cho bệnh Loa Loa đã được phát triển, nhưng các xét nghiệm này không được phổ biến rộng rãi ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, xét nghiệm huyết thanh dương tính không phân biệt được nhiễm bệnh trong quá khứ và hiện tại. Xét nghiệm PCR định lượng thời gian thực (qPCR) để xác nhận chẩn đoán và xác định số lượng vi ấu trùng hiện có ở phòng thí nghiệm ký sinh trùng, Viện Y tế Quốc gia.

Người dân ở các vùng lưu hành bệnh Loiasis tại Châu Phi nên được xét nghiệm bệnh Loa loa trước khi điều trị bằng diethylcarbamazine hoặc ivermectin để điều trị các bệnh lý khác vì những loại thuốc này có thể gây ra tác dụng bất lợi đáng kể ở những người mắc bệnh do Loa loa. Nếu được điều trị bằng diethylcarbamazine hoặc ivermectin, những người có ≥ 8000 vi ấu trùng Loa loa/mL máu có nguy cơ mắc bệnh não có khả năng gây tử vong, do giải phóng kháng nguyên từ vi ấu trùng chết.

Điều trị bệnh do Loa loa

  • Diethylcarbamazine (DEC)

  • Đối với nhiễm trùng nặng, điều trị ban đầu với albendazole và/hoặc bằng apheresis

Điều trị loiasis là phức tạp. DEC là loại thuốc duy nhất có tác dụng tiêu diệt vi ấu trùng và giun trưởng thành. Ở Hoa Kỳ, nó chỉ có sẵn ở CDC sau khi xác nhận bệnh ở phòng xét nghiệm; bác sĩ lâm sàng nên tìm lời khuyên chuyên môn trước khi bắt đầu điều trị, và họ nên làm những điều sau đây trước khi bắt đầu điều trị với DEC:

  • Đo số lượng vi ấu trùng trong máu vì sử dụng DEC để điều trị nhiễm trùng nặng (> 8000 vi ấu trùng/mL máu) có thể dẫn đến bệnh não có khả năng gây tử vong.

  • Loại trừ nhiễm trùng đồng thời với bệnh do onchocerca vì DEC có thể gây ra phản ứng quá mẫn nghiêm trọng (phản ứng Mazzotti) và làm trầm trọng thêm bệnh về mắt và da ở những bệnh nhân mắc bệnh do onchocerca.

Các bác sỹ lâm sàng nên tìm sự hỗ trợ của chuyên gia khi đo số lượng vi ấu trùng và do đó xác định mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng.

Điều trị nhiễm trùng nhẹ

Bệnh nhân có triệu chứng loiasis và < 8000 ấu trùng giun chỉ/mL máu được cho DEC 2,7 đến 3,3 mg/kg 3 lần/ngày trong 21 ngày.

Bệnh nhân đã điều trị bằng DEC không thành công ≥ 2 đợt có thể được dùng albendazole 200 mg uống 2 lần/ngày trong 21 ngày (1).

Ivermectin không được ưu tiên vì có khả năng gây ra các phản ứng bất lợi nghiêm trọng ở bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng (2).

Điều trị nhiễm trùng nặng

Ở những bệnh nhân bị nhiễm nặng, các kháng nguyên giun chỉ (được giải phóng từ vi ấu trùng do DEC đã giết chúng) có thể gây ra bệnh não, dẫn đến hôn mê và tử vong. Bệnh nhân có > 8000 vi ấu trùng/mL máu có nguy cơ bị tác dụng bất lợi này và có thể được hưởng lợi từ phương pháp gạn tách tế bafao máu ngoại vi hoặc điều trị ban đầu bằng albendazole 200 mg uống 2 lần/ngày trong 21 ngày; mục tiêu là giảm lượng vi ấu trùng xuống < 8000/mL trước khi bắt đầu DEC. Có thể cần nhiều đợt DEC và cần xác nhận lượng vi ấu trùng trước khi dùng DEC.

Điều trị đồng nhiễm

Nhiễm trùng đồng thời với bệnh do Loa loa và bệnh do onchocerca đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận chuyên biệt vì những bệnh nhân có lượng vi ấu trùng Loa loa cao có thể bị các tác dụng bất lợi nghiêm trọng sau khi điều trị bệnh do onchocerca bằng ivermectin. Tương tự như vậy, DEC bị chống chỉ định ở những bệnh nhân mắc bệnh do onchocerca do có khả năng gây ra phản ứng viêm nặng ở da và mắt (phản ứng Mazzotti). Ở những khu vực lưu hành cả hai loại ký sinh trùng này, ước tính có khoảng 31.000 người có nguy cơ đồng nhiễm (3).

Trong trường hợp đồng nhiễm Loa nhẹ (số lượng vi ấu trùng < 8000/mL máu), có thể dùng ivermectin trước khi dùng DEC. Khoảng thời gian tối ưu giữa điều trị bằng ivermectin và DEC vẫn chưa được biết rõ; một đánh giá có hệ thống cho thấy giảm 85% lượng vi ấu trùng chỉ sau 1 tuần dùng một liều ivermectin (4).

Trong trường hợp đồng nhiễm Loa loa nặng (vi ấu trùng > 8000/mL máu), có thể sử dụng phương pháp gạn tách tế bào máu từ ngoại vi hoặc albendazole để giảm lượng vi ấu trung trước khi điều trị tuần tự bằng ivermectin và DEC. Albendazole dường như có hoạt tính mạnh hơn đối với giun trưởng thành so với vi ấu trùng, do đó chỉ nên sử dụng thuốc này để làm giảm lượng vi ấu trùng Loa loa ở những bệnh nhân không có tổn thương mắt do onchocerca (5).

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Klion AD, Massougbodji A, Horton J, et al. Albendazole in human loiasis: results of a double-blind, placebo-controlled trial. J Infect Dis. 1993;168(1):202-206. doi:10.1093/infdis/168.1.202

  2. 2. Gardon J, Gardon-Wendel N, Demanga-Ngangue, Kamgno J, Chippaux JP, Boussinesq M. Serious reactions after mass treatment of onchocerciasis with ivermectin in an area endemic for Loa loa infection. Lancet. 1997;350(9070):18-22. doi:10.1016/S0140-6736(96)11094-1

  3. 3. Vinkeles Melchers NVS, Coffeng LE, Boussinesq M, et al. Projected Number of People With Onchocerciasis-Loiasis Coinfection in Africa, 1995 to 2025. Clin Infect Dis. 2020;70(11):2281-2289. doi:10.1093/cid/ciz647

  4. 4. Pion SD, Tchatchueng-Mbougua JB, Chesnais CB, et al. Effect of a Single Standard Dose (150-200 μg/kg) of Ivermectin on Loa loa Microfilaremia: Systematic Review and Meta-analysis. Open Forum Infect Dis. 2019;6(4):ofz019. Xuất bản ngày 11 tháng 1 năm 2019. doi:10.1093/ofid/ofz019

  5. 5. Klion AD. Loiasis (Loa loa infection) In: UpToDate, Connor RF (Ed), Wolters Kluwer. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2025.

Phòng ngừa bệnh do Loa loa

Diethylcarbamazine (DEC) 300 mg uống mỗi tuần một lần có thể được sử dụng để ngăn ngừa loiasis ở những người du lịch dài ngày đến các vùng lưu hành.

Sử dụng thuốc đuổi côn trùng (kể cả quần áo tráng permethrin) và mặc quần áo dài có thể làm giảm số vết cắn bởi ruồi bị nhiễm bệnh. Bởi vì ruồi cắn ban ngày, màn chống muỗi có thể không hữu ích.

Những điểm chính

  • Con người là vật chứa tự nhiên duy nhất được biết đến của Loa loa, được truyền qua những con ruồi ngày.

  • Hầu hết những người bị nhiễm bệnh không có triệu chứng, nhưng một số bị phù mạch (sưng Calabar), chủ yếu xảy ra ở tứ chi, hoặc báo cáo có giun di chuyển trên mắt của họ.

  • Chẩn đoán bằng kiểm tra bằng kính hiển vi mẫu máu ngoại vi được lấy ra từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều, khi mức ấu trùng giun chỉ là cao nhất, xác nhận và đo nồng độ của ấu trùng giun chỉ bằng phản ứng chuỗi polymerase định lượng (qPCR).

  • Đôi khi, chẩn đoán bệnh giun chỉ được xác nhận bằng cách quan sát một con giun trưởng thành di chuyển dưới kết mạc hoặc bằng cách xác định một con giun sau khi nó được phẫu thuật lấy ra khỏi mắt hoặc da.

  • Diethylcarbamazine (DEC), không nên dùng cho bệnh nhân đồng thời bị nhiễm Onchocerca volvulus, là loại thuốc duy nhất có tác dụng tiêu diệt vi ấu trùng và giun trưởng thành; tại Hoa Kỳ, loại thuốc này chỉ được bán tại Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.

  • Tìm kiếm sự hỗ trợ của chuyên gia để đo số lượng vi ấu trùng và xác định mức độ nặng của tình trạng nhiễm bệnh, đồng thời tìm kiếm lời khuyên của chuyên gia trước khi bắt đầu điều trị bằng DEC.

  • Ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng, nên điều trị trước bằng phương pháp gạn tách tế bào máu từ máu ngoại vi hoặc albendazole vì ở những bệnh nhân này, các kháng nguyên giun chỉ được giải phóng khi DEC tiêu diệt vi ấu trùng có thể gây ra bệnh não, dẫn đến hôn mê và tử vong.