Suy tuyến sinh dục nam

TheoMasaya Jimbo, MD, PhD, Thomas Jefferson University Hospital
Xem xét bởiLeonard G. Gomella, MD, Sidney Kimmel Medical College at Thomas Jefferson University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 2 2025 | đã sửa đổi Thg 4 2025

Suy tuyến sinh dục được định nghĩa là sự thiếu hụt testosterone kết hợp với các triệu chứng hoặc giảm sinh tinh trùng, hoặc cả hai. Suy tuyến sinh dục có thể là kết quả của một tinh hoàn bất thường (suy tuyến sinh dục nguyên phát) hoặc do trục dưới đồi - tuyến yên (suy tuyến sinh dục thứ phát). Cả hai tình trạng đều có thể là bẩm sinh hoặc mắc phải do lão hóa, bệnh tật, thuốc men hoặc các yếu tố khác. Ngoài ra, một số khiếm khuyết bẩm sinh về enzyme gây ra kháng androgen ở mô đích với mức độ khác nhau. Chẩn đoán dựa vào nồng độ hormone. Điều trị thay đổi theo nguyên nhân nhưng thường bao gồm hormone giải phóng gonadotropin, gonadotropin hoặc thay thế testosterone.

Nguồn chủ đề

(Xem thêm Suy tuyến sinh dục ở trẻ em.)

Căn nguyên của suy tuyến sinh dục nam

Suy tuyến sinh dục nguyên phát liên quan đến sự kém đáp ứng của tinh hoàn với hormone kích thích nang trứng (FSH) và hormone kích thích hoàng thể (LH). Suy tuyến sinh dục nguyên phát ảnh hưởng đến sản xuất testosterone và nồng độ testosterone thấp không đủ để ức chế sản xuất FSH và LH; do đó, nồng độ FSH và LH tăng lên. Các nguyên nhân di truyền phổ biến nhất của suy tuyến sinh dục nguyên phát là hội chứng Klinefelter. Hội chứng này bao gồm rối loạn phát triển ống sinh tinh, suy giảm quá trình sinh tinh trùng, gia tăng tế bào Leydig, và bộ nhiễm sắc thể 47, XXY.

Suy tuyến sinh dục thứ phát là tình trạng vùng dưới đồi suy giảm sản xuất hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) (ví dụ như suy tuyến sinh dục do suy vùng dưới đồi vô căn) hoặc suy tuyến yên nên không sản sinh đủ FSH và LH. Trong tình trạng suy sinh dục thứ phát, nồng độ testosterone thấp và nồng độ FSH và LH thấp hoặc không bình thường. Bất kỳ bệnh lý cấp tính nào cũng có thể gây ra suy tuyến sinh dục tạm thời. Một số hội chứng suy tuyến sinh dục có cả nguyên nhân nguyên phát và thứ phát (suy tuyến sinh dục hỗn hợp). Bảng Nguyên nhân của suy tuyến sinh dục Liệt kê một số nguyên nhân phổ biến gây suy tuyến sinh dục.

Một số hội chứng suy sinh dục (ví dụ: tinh hoàn ẩn, một số bệnh lý toàn thân) ảnh hưởng đến quá trình sản sinh tinh trùng nhiều hơn nồng độ testosterone.

Bảng
Bảng

Triệu chứng và dấu hiệu của suy tuyến sinh dục nam

Tuổi khởi phát của tình trạng thiếu hụt testosterone chi phối các biểu hiện lâm sàng (bẩm sinh, khởi phát thời thơ ấu, hoặc suy tuyến sinh dục khởi phát ở tuổi trưởng thành).

Suy tuyến sinh dục bẩm sinh có thể xảy ra ở ba tháng thứ nhất, ba tháng thứ hai hoặc ba tháng thứ ba của thai kỳ. Suy sinh dục bẩm sinh khởi phát trong ba tháng thứ nhất của thai kỳ dẫn đến sự phân hóa giới tính nam không đầy đủ (xem thêm Phân hóa giới tính, Phát triển tuyến thượng thận và tuổi dậy thì). Khi không có mặt của testosterone, kết quả bình thường đó là sự hình thành bộ phận sinh dục nữ giới. Thiếu hụt testosterone một phần dẫn đến những bất thường từ cơ quan sinh dục ngoài không rõ ràng đến chứng lỗ tiểu thấp. Thiếu hụt testosterone xảy ra vào ba tháng thứ hai hoặc ba tháng thứ ba của thai kỳ sẽ dẫn đến tình trạng dương vật nhỏ và tinh hoàn ẩn.

Thiếu hụt testosterone khởi phát ở trẻ em (xem Suy sinh dục nam ở trẻ em) không được phát hiện cho đến khi dậy thì muộn. Suy tuyến sinh dục ở những đứa trẻ không được điều trị làm giảm sự phát triển của các đặc điểm giới tính thứ phát. Khi trưởng thành, những đứa trẻ bị ảnh hưởng này có sự phát triển cơ bắp kém, giọng nói cao (the thé), bìu nhỏ, giảm sự phát triển của dương vật và tinh hoàn, lông mu và lông nách thưa, và không có lông trên cơ thể. Trẻ có thể phát triển chứng vú to và tỷ lệ cơ thể khổng lồ dạng hoạn (sải cánh tay > chiều cao 5 cm và chiều dài từ mu đến sàn > chiều dài đỉnh đầu đến mu > 5 cm) do sự hợp nhất chậm của các đầu xương và tiếp tục phát triển xương dài.

Thiếu hụt testosterone ở người trưởng thành có nhiều biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào mức độ và thời gian thiếu hụt. Giảm ham muốn; rối loạn cương dương; suy giảm khả năng nhận thức, chẳng hạn như nhận thức về hình ảnh - không gian; rối loạn giấc ngủ; sự rối loạn vận mạch (trong suy tuyến sinh dục nặng, cấp tính); và thay đổi tâm thần, như trầm cảm và tức giận là rất hay gặp. Giảm khối lượng cơ, tăng lượng chất béo tạng, teo tinh hoàn, loãng xương, vú to nam giới, và lông trên cơ thể thưa thớt, những điều này thường mất từ vài tháng đến vài năm để xuất hiện. Thiếu hụt Testosterone là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch (1).

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

  1. 1. Mulhall JP, Trost LW, Brannigan RE, et al. Evaluation and Management of Testosterone Deficiency: AUA Guideline. J Urol 2018;200(2):423-432. doi:10.1016/j.juro.2018.03.115

Chẩn đoán suy tuyến sinh dục nam

  • Xét nghiệm, bắt đầu với nồng độ hormone kích thích nang trứng (FSH), nồng độ hormone tạo hoàng thể (LH) và nồng độ testosterone

Suy sinh dục bẩm sinh và suy tuyến sinh dục khởi phát ở trẻ em thường được nghi ngờ nếu có sự phát triển bất thường hoặc dậy thì muộn. Suy sinh dục khởi phát ở người lớn nên được nghi ngờ dựa trên các triệu chứng hoặc dấu hiệu, nhưng dễ bị bỏ qua vì các dấu hiệu lâm sàng này không nhạy cảm và không đặc hiệu. Hội chứng klinefelter nên được xem xét ở nam thanh thiếu niên dậy thì muộn, nam thanh niên bị suy sinh dục và tất cả nam giới trưởng thành có tinh hoàn rất nhỏ và/hoặc vô tinh trùng (không có tinh trùng trong tinh dịch). Chẩn đoán suy tuyến sinh dục cần làm một số xét nghiệm (xem biểu đồĐánh giá suy tuyến sinh dục nam).

Chẩn đoán suy tuyến sinh dục nguyên phát và thứ phát

Tăng FSH và LH nhạy cảm hơn với suy sinh dục nguyên phát hơn là giảm nồng độ testosterone. Nồng độ FSH và LH cũng giúp xác định xem suy tuyến sinh dục này là nguyên phát hay thứ phát. Nồng độ gonadotropin cao, dù nồng độ testosterone ở mức bình thường - thấp cũng gợi ý suy tuyến sinh dục nguyên phát, ngược lại nồng độ gonadotropin thấp hoặc thấp hơn so với dự kiến đối với nồng độ testosterone cho thấy suy tuyến sinh dục thứ phát. Ngoài ra, ở những bé trai có vóc dáng thấp và dậy thì muộn, nồng độ testosterone thấp cộng với nồng độ gonadotropin thấp gợi ý tình trạng dậy thì muộn về mặt thể chất. Tăng nồng độ FSH huyết thanh với nồng độ testosterone và LH bình thường và thường xảy ra khi sự sinh tinh bị suy giảm và sự sản xuất testosterone vẫn bình thường. Nguyên nhân của suy tuyến sinh dục thường thấy rõ ở trên lâm sàng. Suy sinh dục nguyên phát không cần phải điều tra thêm về nguyên nhân, mặc dù một số bác sĩ lâm sàng thực hiện xét nghiệm nhiễm sắc thể để chẩn đoán chắc chắn hoặc loại trừ hội chứng Klinefelter.

Nồng độ testosterone huyết thanh toàn phần (và cả tự do - khi có thể), FSH huyết thanh và mức LH huyết thanh được đo cùng một lúc. Giá trị bình thường cho nồng độ testosterone toàn phần là 300 đến 1000 ng/dL (10,5 đến 35 nmol/L). Nên xét nghiệm nồng độ testosterone vào buổi sáng (trước 10:00 sáng) để xác nhận tình trạng suy sinh dục vì nồng độ testosterone cao nhất vào sáng sớm và giảm dần trong ngày. Do sự gia tăng globulin gắn kết hormone giới tính (SHBG) theo tuổi già, nồng độ testosterone toàn phần là một chỉ số ít nhạy cảm về suy tuyến sinh dục sau 50 tuổi. Mặc dù nồng độ testosterone tự do phản ánh chính xác hơn chức năng sinh học của nồng độ testosterone, nhưng định lượng testosterone tự do đòi hỏi trạng thái thẩm tách cân bằng, điều này gặp sự khó khăn về mặt kỹ thuật và không ứng dụng rộng rãi.

Một số bộ dụng cụ thương mại sẵn có, có xét nghiệm tương tự xét nghiệm testosterone tự do, cố gắng để đo nồng độ testosterone tự do nhưng kết quả thường không chính xác, đặc biệt trong tình trạng bệnh lý làm thay đổi nồng độ SHBG (như bệnh đái tháo đường loại 2, béo phì và suy giáp). Nồng độ testosterone tự do có thể được tính toán dựa trên các giá trị SHBG, albumintestosterone; có các máy tính có sẵn trực tuyến. Xem Free and Bioavailable Testosterone Calculator.

Nồng độ FSH và LH trong huyết thanh có thể được lấy từ một mẫu máu duy nhất, thường là 5 mIU/mL (5 IU/L) trước tuổi dậy thì và từ 5 đến 15 mIU/mL (5 đến 15 IU/L) ở tuổi trưởng thành.

Xét nghiệm phân tích tinh dịch nên được thực hiện ở tất cả nam giới đang tìm kiếm phương pháp điều trị hiếm muộn. Ở thanh thiếu niên hoặc người lớn, mẫu tinh dịch thu thập được bằng thủ dâm sau 2 ngày kiêng xuất tinh cung cấp một chỉ số chính xác của chức năng của ống sinh tinh. Mẫu tinh dịch bình thường (tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới [WHO]) có thể tích > 1,5 mL với > 15 triệu tinh trùng/mL, trong đó > 40% có khả năng di chuyển và > 4% có hình thái bình thường (1) (xem thêm Bệnh lý tinh trùng). Nếu 2 xét nghiệm phân tíhc tinh dịch cho thấy bất thường (thiểu tinh trùng hoặc vô tinh trùng), thì nên tiến hành đánh giá nội tiết tố để loại trừ tình trạng suy sinh dục có thể là nguyên nhân gây bệnh.

Đánh giá xét nghiệm về tình trạng suy sinh dục ở nam giới

* Testosterone toàn phần có độ nhạy thấp hơn đối với tình trạng suy sinh dục ở nam giới trên 50 tuổi. Nếu có xét nghiệm testosterone tự do và gắn kết yếu, nồng độ sẽ được đo. Nếu không, mức độ được tính.

† Được khuyến cáo bởi một số bác sĩ.

CT = chụp cắt lớp vi tính; Fe = sắt; FSH = hormone kích thích nang trứng; GnRH = hormone giải phóng gonadotropin; LH = hormone tạo hoàng thể; MRI = chụp cộng hưởng từ.

Đánh giá suy tuyến sinh dục thứ phát

Bởi vì bất kỳ bệnh hệ thống nào cũng có thể làm giảm tạm thời nồng độ testosterone, FSH và LH, nên xác định suy sinh dục thứ phát bằng cách đo lại các nồng độ này ít nhất 4 tuần sau khi khỏi bệnh hệ thống. Để xác nhận suy sinh dục thứ phát ở thanh thiếu niên, có thể cân nhắc làm thử nghiệm kích thích GnRH. Nếu nồng độ FSH và LH tăng sau tiêm tĩnh mạch GnRH thì có thể là dậy thì muộn là đơn thuần. Nếu nồng độ không tăng thì gần như đó là suy tuyến sinh dục thực sự.

Để giúp xác định nguyên nhân của suy tuyến sinh dục thứ phát, nên xét nghiệm nồng độ prolactin huyết thanh (để sàng lọc u tuyến yên) và độ bão hòa transferrin (để sàng lọc bệnh quá tải sắt). Chẩn đoán hình ảnh tuyến yên bằng cách chụp MRI hoặc chụp CT được thực hiện để loại trừ u tuyến yên to hoặc khối u khác ở nam giới có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

  • < 60 tuổi mà không tìm được nguyên nhân khác gây suy tuyến sinh dục.

  • Nồng độ testosterone toàn phần rất thấp (< 200 ng/dL [6,94 nmol/L])

  • Nồng độ prolactin tăng cao (> 20 ng/mL khi đói)

  • Triệu chứng phù hợp với khối u tuyến yên (ví dụ, đau đầu, triệu chứng về thị giác)

Ngoài ra, nếu có triệu chứng hoặc dấu hiệu của hội chứng Cushing, cần tiến hành xét nghiệm nước tiểu 24 giờ để định lượng cortisol tự do hoặc thử nghiệm ức chế dexamethasone. Nếu không xác định được nguyên nhân bất thường nào, chẩn đoán đưa ra là suy tuyến sinh dục thứ phát vô căn mắc phải.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. World Health Organization, HRP: WHO laboratory manual for the examination and processing of human semen, Sixth edition. Ngày 27 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2025.

Điều trị suy tuyến sinh dục nam

  • Liệu pháp thay thế testosterone

  • Liệu pháp thay thế Gonadotropin để phục hồi khả năng sinh sản do suy tuyến sinh dục thứ phát.

Điều trị trực tiếp theo hướng thay thế androgen thích hợp là khá thuận tiện và an toàn. Mặc dù các bệnh nhân bị suy tuyến sinh dục nguyên phát không thể có khả năng sinh sản khi dùng bất kỳ liệu pháp nội tiết nào nhưng bệnh nhân suy tuyến sinh dục thứ phát thường có khả năng sinh sản với liệu pháp gonadotropin. Các công thức bào chế testosterone được thảo luận ở đây là những công thức có sẵn tại Hoa Kỳ. Dạng bào chế khác có thể có ở các nước khác.

Liệu pháp thay thế testosterone (TRT)

Do testosterone ngoại sinh làm suy giảm quá trình sinh tinh, nên tránh TRT, khi có thể, khi khả năng sinh sản sau này là một điều lo ngại (trừ khi có suy tinh hoàn nguyên phát không thể hồi phục), bao gồm cả tình trạng suy sinh dục thứ phát. Điều trị suy sinh dục thứ phát ở bé trai bằng liệu pháp thay thế gonadotropin (xem Điều trị vô sinh do suy sinh dục) thường kích thích sản sinh androgen cũng như quá trình sinh tinh.

Tuy nhiên, nếu không lo ngại về khả năng sinh sản sau này, có thể sử dụng riêng TRT để điều trị chứng suy sinh dục thứ phát.

TRT có thể được sử dụng cho nam giới trẻ tuổi

  • Không có dấu hiệu dậy thì

  • Gần đến tuổi 15

  • Đã được loại trừ suy tuyến sinh dục thứ phát

Họ có thể được dùng testosterone enanthate tác dụng kéo dài mỗi tháng một lần trong vòng 4 tháng đến 8 tháng. Liều lượng thấp có thể gây ra hiện tượng nam hóa mà không hạn chế chiều cao khi trưởng thành. Thanh thiếu niên lớn hơn bị thiếu hụt testosterone sẽ được dùng testosterone enanthate hoặc testosterone cypionate tác dụng kéo dài với liều lượng tăng dần trong vòng 18 tháng đến 24 tháng, 1 tuần đến 2 tuần một lần. Gel bôi ngoài da cũng có thể được sử dụng, mặc dù loại gel này đắt hơn và có thể bị dính sang người khác trong quá trình tiếp xúc thân mật. Có thể chuyển đổi thanh thiếu niên lớn tuổi sang dùng chế phẩm gel testosterone theo liều lượng dành cho người lớn khi liều tiêm bắp của họ đạt tới mức tương đương 100 đến 200 mg 2 tuần một lần.

Người lớn đã xác định bị thiếu hụt testosterone có thể được hưởng lợi từ liệu pháp thay thế. Điều trị làm chậm tiến trình của loãng xương,sự mất cơ, mất ổn định vận mạch, giảm ham muốn, trầm cảm, và đôi khi cả rối loạn cương dương. Tác động của testosterone trên bệnh động mạch vành chưa được hiểu rõ. TRT có thể cải thiện lưu lượng máu động mạch vành và có thể làm giảm nguy cơ bệnh động mạch vành. Điều lo ngại là TRT làm tăng nguy cơ bị các biến cố tim mạch đã được nêu ra trong một số nghiên cứu. Tuy nhiên, một thử nghiệm đa tổ chức lớn đã chứng minh rằng liệu pháp thay thế testosterone không kém hơn giả dược về nguy cơ mắc các biến cố tim mạch bất lợi lớn (1).

Các lựa chọn cho TRT bao gồm

  • Testosterone undecanoate uống hai lần mỗi ngày

  • Gel testosterone

  • Dung dịch thấm qua da bôi ở nách

  • Viên ngậm ở niêm mạc má

  • Miếng dán thấm qua da có testosterone

  • Công thức bào chế dùng ở mũi

  • Cấy ghép testosterone dưới da

  • Testosterone enanthate hoặc testosterone cypionate tiêm bắp

Testosterone dạng gel duy trì nồng độ sinh lý trong máu phù hợp hơn các phương pháp điều trị khác, tuy nhiên đôi khi dạng tiêm bắp hoặc dạng dán qua da lại được ưa thích vì chi phí thấp hơn. Các dạng uống thường khó đánh giá được mức độ hấp thu.

Tác động phụ tiềm tàng của testosterone bào gồm

Rất hiếm khi có thể xảy ra tình trạng phì đại tuyến tiền liệt. Người ta cho rằng đây là tốc độ tăng trưởng sinh lý do nồng độ testosterone trong huyết thanh được bình thường hóa. Triệu chứng tắc nghẽn tuyến tiền liệt rất hiếm. Việc thay thế testosterone ở mức sinh lý không được cho là gây ra ung thư tuyến tiền liệt mới hoặc đẩy nhanh sự phát triển hoặc lây lan của ung thư tuyến tiền liệt tại chỗ (2). TRT được cho là có ảnh hưởng rất ít đến nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến (PSA) trong huyết thanh ở nam giới có phì đại lành tính tuyến tiền liệt và ở nam giới được điều trị ung thư tiền liệt tuyến. Tuy nhiên, thông tin sản phẩm vẫn nói rằng TRT là chống chỉ định ở nam giới ung thư tuyến tiền liệt và nam giới có hoặc có nguy cơ cao bị ung thư tuyến tiền liệt nên được tư vấn và theo dõi cẩn thận bằng thăm khám trực tràng và định lượng PSA trong khi dùng TRT. Sinh thiết tuyến tiền liệt có thể cần thiết nếu lượng PSA cao vẫn tồn tại sau khi ngừng TRT. Nam giới bị suy sinh dục do ung thư tuyến tiền liệt đã được điều trị hiệu quả hoặc nghi ngờ mắc ung thư tuyến tiền liệt nên tham khảo ý kiến ​​chuyên gia.

Nam giới bổ sung testosterone nên được theo dõi định kỳ. Nồng độ hematocrit, PSA và testosterone cần phải được đo ba tháng một lần trong năm đầu tiên của TRT và sáu tháng một lần sau đó. Thăm khám trực tràng vào cùng thời điểm. Nếu hematocrit 54% (chỉ ra tình trạng đa hồng cầu), nên cân nhắc trích máu ở tĩnh mạch để điều trị và nên giảm liều testosterone. Mức tăng đáng kể PSA nên được nhanh chóng xem xét sinh thiết tuyến tiền liệt nếu không sẽ bị bỏ sót chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Điều trị vô sinh do suy tuyến sinh dục

Vô sinh có nhiều nguyên nhân có thể khác với suy tuyến sinh dục. Vô sinh do suy sinh dục nguyên phát thường không đáp ứng với liệu pháp hormone. Nam giới bị suy tuyến sinh dục nguyên phát đôi khi có một vài tinh trùng trong tinh hoàn có thể được thu thập bằng các kỹ thuật vi phẫu khác nhau và được sử dụng để thụ tinh với trứng bằng kỹ thuật sinh sản hỗ trợ (ví dụ: thụ tinh trong ống nghiệm).

Vô sinh do suy sinh dục thứ phát thường đáp ứng với liệu pháp thay thế gonadotropin. Các triệu chứng khác của suy tuyến sinh dục thứ phát thường đáp ứng tốt với liệu pháp thay thế testosterone đơn độc. Nếu suy tuyến sinh dục thứ phát từ bệnh tuyến yên, liệu pháp thay thế gonadotropin thường hiệu quả. Liệu pháp bắt đầu bằng việc thay thế hormone tạo hoàng thể (LH) và hormone kích thích nang trứng tái tổ hợp (FSH). Liệu pháp thay thế hormone hoàng thể được bắt đầu bằng cách sử dụng gonadotropin màng đệm ở người, với liều lượng được điều chỉnh dựa trên việc theo dõi nồng độ hormone. Thay thế FSH rất tốn kém, sử dụng gonadotropin menotropic của người hoặc FSH tái tổ hợp của người. Có thể điều chỉnh liều theo kết quả xét nghiệm định kỳ với tinh dịch đồ và nồng độ FSH huyết thanh, LH và testosterone. Khi đạt được một lượng tinh trùng thích hợp, FSH có thể ngưng và hCG đơn trị liệu vẫn tiếp tục.

Hầu hết những người đàn ông bị suy tuyến sinh dục thứ phát do khiếm khuyết ở vùng dưới đồi (ví dụ như suy tuyến sinh dục do suy vùng dưới đồi vô căn, Hội chứng Kallmann) có thể có khả năng sinh sản sau điều trị mặc dù lượng tinh trùng thấp (ví dụ: < 5 triệu tinh trùng/ml). Khi điều trị bằng LH và FSH không hiệu quả, liệu pháp thay thế hormone giải phóng gonadotropin theo nhịp có thể hiệu quả hơn mặc dù ít có sẵn. Hầu hết nam giới đều có đáp ứng tốt với các phác đồ điều trị này.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Lincoff AM, Bhasin S, Flevaris P, et al. Cardiovascular Safety of Testosterone-Replacement Therapy. N Engl J Med 2023;389(2):107-117. doi:10.1056/NEJMoa2215025

  2. 2. Mulhall JP, Trost LW, Brannigan RE, et al. Evaluation and Management of Testosterone Deficiency: AUA Guideline. J Urol 2018;200(2):423-432. doi:10.1016/j.juro.2018.03.115

Những điểm chính

  • Nồng độ hormone kích thích nang trứng và hormone hoàng thể giúp phân biệt giữa suy sinh dục nguyên phát (nồng độ cao) và suy sinh dục thứ phát (nồng độ thấp hoặc ở ngưỡng bình thường).

  • Các triệu chứng liên quan đến độ tuổi của suy tuyến sinh dục bao gồm sự hình thành giới tính không đày đủ (bẩm sinh), dậy thì muộn (khởi phát khi trẻ nhỏ), và các triệu chứng không đặc hiệu khác như giảm ham muốn, rối loạn cương dương, suy giảm nhận thức, giảm phần trăm khối cơ, rối loạn giấc ngủ và thay đổi cảm xúc (khởi phát người lớn).

  • Nồng độ testosterone sinh khả dụng, có thể tính toán và đôi khi đo được, phản ánh tình trạng đủ năng lượng của tuyến sinh dục tốt hơn so với nồng độ testosterone toàn phần.

  • Chẩn đoán có thể được tiếp cận một cách có hệ thống, sử dụng sơ đồ chẩn đoán.

  • Liệu pháp thay thế testosterone có thể làm giảm các triệu chứng của suy tuyến sinh dục nhưng không khôi phục được khả năng sinh sản.

  • Liệu pháp thay thế Gonadotropin thường có thể khôi phục lại khả năng sinh sản ở nam giới suy tuyến sinh dục thứ phát.