Đau đa cơ dạng thấp

TheoAlexandra Villa-Forte, MD, MPH, Cleveland Clinic
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 12 2024

Đau đa cơ dạng thấp là một hội chứng gắn liền với viêm động mạch tế bào khổng lồ (viêm động thái dương). Bệnh này làm thưởng tổn ở người lớn > 50 tuổi. Thường gây đau và cứng nhiều ở các cơ gốc chi, không có yếu hoặc teo cơ và có các triệu chứng toàn thân không đặc hiệu. Tốc độ máu lắng và protein C phản ứng thường tăng cao. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị bằng corticosteroid liều thấp có hiệu quả. Đáp ứng nhanh và hiệu quả với liều prednisone hoặc methylprednisolone thấp hoặc trung bình hỗ trợ chẩn đoán.

(Xem thêm Tổng quan về viêm mạch.)

Bệnh thấp khớp đau đa cơ làm thương tổn ở người lớn > 50 tuổi; tỷ lệ nữ:nam là 2:1.

Vì bệnh thấp khớp đau đa cơ có liên quan chặt chẽ với viêm động mạch tế bào khổng lồ nên một số tác giả coi 2 bệnh lý này là những khía cạnh khác nhau của cùng một quá trình. Đau đa cơ dạng thấp có vẻ thường gặp hơn. Một số bệnh nhân đau đa cơ dạng thấp tiến triển thành viêm động mạch tế bào khổng lồ, nhưng 40 đến 60% bệnh nhân bị viêm động mạch tế bào khổng lồ có triệu chứng đau đa cơ dạng thấp. Đau đa cơ dạng thấp có thể xuất hiện trước, sau, hoặc xảy ra đồng thời với viêm động mạch tế bào khổng lồ.

Nguyên nhân và sinh bệnh học chưa rõ. Kết quả siêu âm và kết quả chụp MRI cho thấy có tình trạng viêm màng hoạt dịch và viêm bao hoạt dịch trục mức độ thấp.

Triệu chứng và Dấu hiệu Đau cơ dạng thấp

Đau đa cơ dạng thấp được đặc trưng bởi triệu chứng đau gốc chi, đối xứng hai bên của vai, hông, các cơ đai vai và lưng (ngực và thắt lưng) và các cơ cổ. Thường có cứng khớp buổi sàng và kéo dài > 60 phút. Các triệu chứng của viêm bao thanh dịch gốc chi (ví dụ bao thanh dịch dưới cơ delta, dưới mỏm cùng vai) và ít gặp viêm bao gân nhị đầu hoặc viêm màng hoạt dịch khớp. Khó chịu có thể khiến bệnh nhân tỉnh giấc và các triệu chứng nặng hơn vào buổi sáng; có thể nặng tới mức khiến bệnh nhân không thể dậy khỏi giường và làm những công việc đơn giản. Đau có thể làm cho bệnh nhân cảm thấy yếu, nhưng yếu cơ không phải là đặc điểm của bệnh.

Chẩn đoán Đau đa cơ dạng thấp

  • Các dấu hiệu lâm sàng

  • Loại trừ các nguyên nhân khác

Nghĩ tới đau đa cơ dạng thấp ở bệnh nhân lớn tuổi với các triệu chứng điển hình, nhưng phải loại trừ các nguyên nhân có thể khác.

Các xét nghiệm bao gồm tốc độ máu lắng (ESR), protein C phản ứng, công thức máu, nồng độ hóc môn kích thích tuyến giáp và creatine kinase (CK). > 80% bệnh nhân có tốc độ máu lắng tăng lên đáng kể, thường > 100 mm/giờ, > 50 mm/h (phương pháp Westergren). CRP cũng tăng. Điện cơ đồ, sinh thiết và các xét nghiệm khác (ví dụ: yếu tố dạng thấp), vốn bình thường trong bệnh thấp khớp đau đa cơ, đôi khi được thực hiện để loại trừ các chẩn đoán nghi ngờ khác trên lâm sàng.

Những dấu hiệu sau giúp phân biệt đau đa cơ dạng thấp với

  • Viêm khớp dạng thấp: Trong bệnh thấp khớp đau đa cơ, viêm màng hoạt dịch khớp nhỏ mạn tính, tổn thương ăn mòn hoặc tổn thương tiêu hủy, các nốt dạng thấp và yếu tố dạng thấp không có ở khoảng 80% số bệnh nhân (mặc dù có thể có một số trường hợp sưng khớp). 20% còn lại khó phân biệt với viêm khớp dạng thấp.

  • Viêm cơ tự miễn: Trong đau đa cơ dạng thấp, triệu chứng đau nổi trội hơn là yếu cơ, men cơ, điện cơ và sinh thiết cơ là bình thường.

  • Suy giáp: Trong đau đa cơ dạng thấp, các xét nghiệm chức năng tuyến giáp và men cơ là bình thường.

  • Đa u tủy xương: Đau đa cơ dạng thấp không có tăng sinh đơn dòng globulin miễn dịch.

  • Đau xơ cơ: Trong đau đa cơ dạng thấp, các triệu chứng khu trú hơn, máu lắng thường tăng, bệnh nhân đau khi sờ hoặc vận động (cả chủ động và thụ động) khớp vai, ngay cả khi bệnh nhân không tập trung.

Điều trị Đau đa cơ dạng thấp

  • Prednisone

  • Thuốc ức chế Interleukin (IL)-6 ở một số bệnh nhân được chọn

Prednisone khởi đầu với liều 15 đến 20 mg uống một lần/ngày có hiệu quả tốt, thường tác dụng rất nhanh (trong vài giờ hoặc vài ngày), và có thể là một dấu hiệu giúp chẩn đoán bệnh. Nếu nghi ngờ bị viêm động mạch tế bào khổng lồ, liều corticosteroid phải cao hơn và phải tiến hành đánh giá chẩn đoán viêm động mạch tế bào khổng lồ.

Đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào các triệu chứng, máu lắng, và CRP. Khi triệu chứng được cải thiện, giảm liều corticosteroid tới liều thấp nhất có hiệu quả trên lâm sàng, bất kể máu lắng. CRP có ý nghĩa hơn máu lắng trong theo dõi đáp ứng với điều trị vì máu lắng có thể tăng ở bệnh nhân lớn tuổi do những nguyên nhân khác. Một số bệnh nhân có thể ngừng dùng corticosteroid sau khoảng 2 năm, hoặc thậm chí sớm hơn mà không bị tái phát, trong khi những bệnh nhân khác cần dùng liều nhỏ trong nhiều năm. Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) hiếm khi đủ.

Sarilumab, một loại thuốc ức chế IL-6, có thể được sử dụng cho những bệnh nhân không đáp ứng đủ với corticosteroid hoặc không thể dung nạp việc giảm liều (1). Methotrexate là một lựa chọn khác cho những bệnh nhân không thể giảm dần corticosteroid mà không bị tái phát, nhưng dữ liệu còn hạn chế (2). Các thử nghiệm sử dụng thuốc ức chế yếu tố hoại tử khối u (TNF) (infliximab và adalimumab) chưa cho thấy lợi ích.

Ở bệnh nhân lớn tuổi, bác sĩ cần theo dõi và điều trị các biến chứng do sử dụng corticosteroid (ví dụ như tiểu đường, tăng huyết áp). Bệnh nhân dùng prednisone kéo dài nên được sử dụng bisphosphonate để phòng loãng xương.

Viêm động mạch tế bào khổng lồ có thể là triệu chứng khởi đầu của đau đa cơ dạng thấp hoặc xuất hiện sau đó một thời gian, thậm chí có thể xuất hiện sau khi bệnh nhân đã được điều trị khỏi bệnh. Do đó, tất cả bệnh nhân cần được hướng dẫn để biết và báo với bác sĩ ngay khi có các triệu chứng như nhức đầu, đau cơ khi nhai và đặc biệt là khi có các rối loạn thị giác.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Spiera RF, Unizony S, Warrington KJ, et al. Sarilumab for Relapse of Polymyalgia Rheumatica during Glucocorticoid Taper. N Engl J Med 389(14):1263-1272, 2023. doi:10.1056/NEJMoa2303452

  2. 2. Caporali R, Cimmino MA, Ferraccioli G, et al. Prednisone plus methotrexate for polymyalgia rheumatica: a randomized, double-blind, placebo-controlled trial. Ann Intern Med 141(7):493-500, 2004. doi:10.7326/0003-4819-141-7-200410050-00005

Những điểm chính

  • Bệnh thấp khớp đau đa cơ làm thương tổn ở người lớn > 50 tuổi, gây đau cơ và cứng khớp ở đầu gần.

  • 40 đến 60% số bệnh nhân bị viêm động mạch tế bào khổng lồ.

  • Chẩn đoán lâm sàng, đôi khi có bằng chứng hỗ trợ về tốc độ máu lắng tăng cao và/hoặc protein C phản ứng cùng với phản ứng mạnh với liều corticosteroid từ thấp đến trung bình.

  • Điều trị bằng corticosteroid, sau đó giảm liều khi có thể.

  • Cảnh báo bệnh nhân về các triệu chứng của viêm động mạch tế bào khổng lồ.