Rối loạn ám ảnh cưỡng chế được đặc trưng bởi ám ảnh, cưỡng chế, hoặc cả hai. Những ám ảnh không thể cưỡng lại được là những ý tưởng, hình ảnh, hoặc xung động liên tục không thể cưỡng lại được để làm điều gì đó. Cưỡng chế là bệnh lý gây ra xung lực, nếu được chống lại, dẫn đến lo lắng và căng thẳng quá mức. Sự ám ảnh và cưỡng chế gây ra nhiều phiền toái và can thiệp vào chức năng học tập hay xã hội. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp hành vi và các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs).
(Xem thêm Rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở người trưởng thành.)
Tuổi trung bình bắt đầu rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) là 19 đến 20 tuổi; khoảng 21% số trường hợp bắt đầu trước 10 tuổi (1).
OCD bao gồm một số rối loạn liên quan, bao gồm
Một số trẻ em, đặc biệt là trẻ em trai, cũng có một rối loạn tic.
Tài liệu tham khảo chung
1. Kessler RC, Berglund P, Demler O, et al: Lifetime prevalence and age-of-onset distributions of DSM-IV disorders in the National Comorbidity Survey Replication. Arch Gen Psychiatry 62(6):593-602, 2005. doi: 10.1001/archpsyc.62.6.593
Căn nguyên
Các nghiên cứu cho thấy có yếu tố gia đình (1). Mạng lưới gen của OCD rất phức tạp và bao gồm những gen liên quan đến truyền qua khớp thần kinh, phát triển thần kinh, hệ miễn dịch và viêm nhiễm (2). Các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh thần kinh cho thấy vấn đề có thể xảy ra với các mạch vỏ não-thể vân-đồi thị (3).
Có bằng chứng cho thấy một số trường hợp khởi phát cấp tính (qua đêm) có liên quan đến nhiễm trùng (4, 5). Những bệnh liên quan đến liên cầu tán huyết beta nhóm A được gọi là PANDAS (rối loạn tâm thần kinh tự miễn liên quan đến liên cầu ở trẻ em). Những bệnh liên quan đến các bệnh nhiễm trùng khác được gọi là PANS (hội chứng tâm thần kinh khởi phát cấp tính ở trẻ em). Điều chỉnh tăng và tăng sinh các bạch cầu đơn nhân "chưa trưởng thành" trong hệ tuần hoàn có thể xâm nhập vào não và làm tăng giải phóng các cytokine tiền viêm cũng đã được báo cáo là có vai trò trong bệnh OCD ở trẻ em (6–8).
Nghiên cứu trong lĩnh vực này đang diễn ra và gây tranh cãi, và nếu nghi ngờ PANDAS hoặc PANS, nên hội chẩn với một chuyên gia về các rối loạn này.
Tài liệu tham khảo về căn nguyên
1. Hanna GL, Himle JA, Curtis GC, et al: A family study of obsessive-compulsive disorder with pediatric probands. Am J Med Genet B Neuropsychiatr Gen 2005;134B(1):13-19, 2005. doi: 10.1002/ajmg.b.30138
2. Saraiva LC, Cappi C, Simpson HB, et al: Cutting-edge genetics in obsessive-compulsive disorder. Fac Rev 9:30, 2020. doi: 10.12703/r/9-30
3. Fitzgerald KD, Welsh RC, Stern ER, et al: Developmental alterations of frontal-striatal-thalamic connectivity in obsessive-compulsive disorder. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 50(9):938-948.e3, 2011. doi: 10.1016/j.jaac.2011.06.011
4. Murphy TK, Kurlan R, Leckman J: The immunobiology of Tourette's disorder, pediatric autoimmune neuropsychiatric disorders associated with Streptococcus, and related disorders: A way forward. J Child Adolesc Psychopharmacol 20(4):317-331, 2010. doi: 10.1089/cap.2010.0043
5. Esposito S, Bianchini S, Baggi E, et al: Pediatric autoimmune neuropsychiatric disorders associated with streptococcal infections: An overview. Eur J Clin Microbiol Infect Dis 33:2105-2109, 2014.
6. Rodriguez N, Morer A, Gonzalez-Navarro EA, et al: Inflammatory dysregulation of monocytes in pediatric patients with obsessive-compulsive disorder. J Neuroinflammation 14(1):261, 2017. doi: 10.1186/s12974-017-1042-z
7. Wohleb ES, McKim DB, Sheridan JF, et al: Monocyte trafficking to the brain with stress and inflammation: A novel axis of immune-to-brain communication that influences mood and behavior. Front Neurosci 8:447, 2014. doi: 10.3389/fnins.2014.00447
8. Cosco TD, Pillinger T, Emam H, et al: Immune aberrations in obsessive-compulsive disorder: A systematic review and meta-analysis. Mol Neurobiol 56(7):4751-4759, 2019. doi: 10.1007/s12035-018-1409-x
Triệu chứng và Dấu hiệu
Thông thường, OCD có một sự khởi phát dần dần, âm thầm. Hầu hết trẻ em ban đầu che giấu các triệu chứng của chúng và báo cáo phải vật lộn với những triệu chứng nhiều năm trước khi chẩn đoán xác định được thực hiện.
Những nỗi ám ảnh thường trải nghiệm như những lo lắng hoặc sợ hãi hoặc gây tổn hại (ví dụ, mắc bệnh hiểm nghèo, tội lỗi và đi xuống địa ngục, làm bị thương bản thân hoặc người khác). Cưỡng chế là những hành vi ý chí có chủ ý, thường được thực hiện để vô hiệu hoặc bù đắp những nỗi sợ hãi; bao gồm các hành vi kiểm tra; rửa, đếm quá nhiều hoặc sắp xếp; và nhiều cái khác. Sự ám ảnh và cưỡng chế có thể có một số kết nối hợp lý (ví dụ, rửa tay để tránh bệnh tật) hoặc có thể là vô lý và độc đáo (ví dụ, đếm đến 50 lần và hơn để ngăn ông nội bị đau tim). Nếu trẻ em bị ngăn cản thực hiện cưỡng chế của họ, họ trở nên lo lắng và quan tâm quá mức.
Hầu hết trẻ em đều có nhận thức rằng sự ám ảnh và cưỡng chế của chúng là bất thường. Nhiều trẻ bị ảnh hưởng tỏ ra xấu hổ và bí mật. Các triệu chứng thông thường bao gồm:
Có bàn tay thô ráp, nứt (biểu hiện triệu chứng ở trẻ em cưỡng chế rửa)
Sử dụng quá nhiều thời gian trong phòng tắm
Làm việc học tập rất chậm (vì ám ảnh về những sai lầm)
Thực hiện nhiều chỉnh sửa trong học tập
Tham gia vào các hành vi lặp đi lặp lại hoặc kỳ quặc như kiểm tra khóa cửa, nhai thức ăn một số lần nhất định, hoặc tránh chạm vào những thứ nhất định
Làm những yêu cầu thường xuyên và tẻ nhạt để đảm bảo, đôi khi hàng chục hoặc thậm chí hàng trăm lần mỗi ngày-hỏi, ví dụ như, "Bạn có nghĩ tôi bị sốt không? Liệu chúng ta có cơn lốc xoáy? Bạn có nghĩ rằng chiếc xe sẽ khởi hành? Nếu chúng ta trễ thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu sữa chua? Nếu một kẻ trộm đến thì sao?"
Chẩn đoán
Đánh giá tâm thần
Các tiêu chuẩn trong Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM-5-TR)
Chẩn đoán dựa vào tiền sử bệnh. Chẩn đoán OCD là dựa vào bệnh sử Một khi mối quan hệ thoải mái với một nhà trị liệu không phán xét được thiết lập, đứa trẻ mắc chứng OCD thường tiết lộ nhiều ám ảnh và những áp lực liên quan. Tuy nhiên, thông thường cần có một số cuộc hẹn để thiết lập lòng tin.
Chẩn đoán OCD cần phải có dấu hiệu về những ám ảnh và cưỡng chế gây ra đau khổ lớn và cản trở hoạt động học tập hoặc xã hội.
Trẻ bị OCD thường có các triệu chứng của các chứng rối loạn lo âu khác, bao gồm các cơn hoảng sợ, các vấn đề về sự chia ly, và những ám ảnh đặc biệt. Triệu chứng chồng chéo này đôi khi làm rối loạn chẩn đoán. Chẩn đoán phân biệt có thể khó khăn trong các trường hợp sau:
Rối loạn tâm thần khởi phát sớm: Không giống như người lớn, trẻ em không phải lúc nào cũng phân biệt được bản chất không thực của các triệu chứng OCD.
Rối loạn phổ tự kỷ: Những sở thích và sự ép buộc mãnh liệt có thể xảy ra ở chứng tự kỷ. Không giống như ở OCD có những hoạt động này có thể xâm nhập và có vấn đề, trẻ tự kỷ thích những hoạt động này hơn.
Rối loạn tic phức tạp: Khó phân biệt với nhữnf cưỡng bức phức tạp.
Tiêu chuẩn chẩn đoán cho PANDAS và PANS đã được xây dựng (1, 2).
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. Chang K, Frankovich J, Cooperstock M, et al: Clinical evaluation of youth with pediatric acute-onset neuropsychiatric syndrome (PANS): Recommendations from the 2013 PANS Consensus Conference. J Child Adolesc Psychopharmacol 25(1):3-13, 2015. doi: 10.1089/cap.2014.0084
2. Swedo SE, Leckman JF, Rose NR: From research subgroup to clinical syndrome: Modifying the PANDAS criteria to describe PANS (pediatric acute-onset neuropsychiatric syndrome). Pediatr Therapeutics 2:1-8, 2012. doi: 10.4172/2161-0665.1000113
Điều trị
Liệu pháp nhận thức-hành vi (CBT): Phòng ngừa phơi nhiễm và ứng phó được phân mức độ (1)
Thường xuyên là các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI; [2])
Liệu pháp nhận thức-hành vi là hữu ích nếu trẻ em được khuyến khích và có thể thực hiện các nhiệm vụ và nên là phương pháp điều trị bước đầu.
SSRI là loại thuốc hiệu quả nhất và thường được dung nạp tốt (xem bảng Thuốc điều trị dài hạn lo âu và các rối loạn liên quan); tất cả đều có hiệu quả như nhau.
Đối với OCD nặng, khuyến cáo kết hợp SSRI và CBT (3).
Đối với OCD khó điều trị, các chiến lược sau có thể được xem xét:
Thử một SSRI khác
Tăng cường dùng SSRI kèm theo thuốc chống loạn thần không thường dùng (4–6) hoặc ít thường xuyên hơn là lithium (7), riluzole (8), N-acetylcysteine (9, 10)
Clomipramine
Clomipramine (11) có thể hiệu quả hơn và có tỷ lệ đáp ứng tốt hơn so với SSRIs ở trẻ em chứ không phải ở người lớn (12). Clomipramine có thể có nguy cơ cao hơn bị tác dụng bất lợi, bao gồm tác dụng bất lợi kháng cholinergic và ở tim, và co giật.
Kích thích từ trường qua sọ được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ phê duyệt dùng cho người lớn và đang được thử nghiệm để sử dụng cho trẻ em.
Nếu tiêu chuẩn cho PANS/PANDAS được đáp ứng, bác sĩ lâm sàng có thể thử kháng sinh (như beta-lactams, làm giảm hoạt tính glutamatergic). Tuy nhiên, nếu các triệu chứng vẫn còn, các phương pháp điều trị điển hình cho OCD rất hữu ích và cần được thực hiện.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Uhre CF, Uhre VF, Lonfeldt NN, et al: Systematic review and meta-analysis: Cognitive-behavioral therapy for obsessive-compulsive disorder in children and adolescents. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 59(1)59:64-77, 2020. doi: 10.1016/j.jaac.2019.08.480
2. Geller DA, Biederman J, Stewart SE, et al: Which SSRI? A meta-analysis of pharmacotherapy trials in pediatric obsessive-compulsive disorder. Am J Psychiatry 160(11):1919-1928, 2003. doi: 10.1176/appi.ajp.160.11.1919
3. Sanchez-Meca J, Rosa-Alcazar AI, Iniesta-Sepulveda M, et al: Differential efficacy of cognitive-behavioral therapy and pharmacological treatments for pediatric obsessive-compulsive disorder: A meta-analysis. J Anxiety Disord 28(1):31-44. doi: 10.1016/j.janxdis.2013.10.007
4. Fitzgerald KD, Stewart CM, Tawile V, et al: Risperidone augmentation of serotonin reuptake inhibitor treatment of pediatric obsessive compulsive disorder. J Child Adolesc Psychopharm 9(2):115-123, 1999. doi: 10.1089/cap.1999.9.115
5. Figueroa Y, Rosenberg DR, Birmaher B, et al: Combination treatment with clomipramine and selective serotonin reuptake inhibitors for obsessive-compulsive disorder in children and adolescents. J Child Adolesc Psychopharmacol 8(1):61-67, 1998. doi: 10.1089/cap.1998.8.61
6. Simeon JG, Thatte S, Wiggins D: Treatment of adolescent obsessive-compulsive disorder with a clomipramine-fluoxetine combination. Psychopharmacol Bull 26(3):285-290, 1990.
7. McDougle CJ, Price LH, Goodman WK, et al: A controlled trial of lithium augmentation in fluvoxamine-refractory obsessive-compulsive disorder: Lack of efficacy. J Clin Psychopharmacol 11(3):175-184, 1991.
8. Grant PJ, Joseph LA, Farmer CA, et al: 12-week, placebo-controlled trial of add-on riluzole in the treatment of childhood-onset obsessive-compulsive disorder. Neuropsychopharmacology 39(6):1453-1459, 2013. doi: 10.1038/npp.2013.343
9. Afshar H, Roohafza H, Mohammad-Beigi HM, et al: N-acetylcysteine add-on treatment in refractory obsessive-compulsive disorder: A randomized, double-blind, placebo-controlled trial. J Clin Psychopharmacol 32(6):797-803, 2012. doi: 10.1097/JCP.0b013e318272677d
10. Sarris J, Oliver G, Camfield DA, et al: N-acetyl cysteine (NAC) in the treatment of obsessive-compulsive disorder: A 16-week, double-blind, randomised, placebo-controlled study. CNS Drugs 29(9):801-809, 2015. doi: 10.1007/s40263-015-0272-9
11. DeVeaugh-Geiss J, Moroz G, Beiderman J, et al: Clomipramine hydrochloride in childhood and adolescent obsessive-compulsive disorder—A multicenter trial. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 31(1):45-49, 1992. doi: 10.1097/00004583-199201000-00008
12. Mundo E, Maina G, Uslenghi C: Multicentre, double-blind, comparison of fluvoxamine and clomipramine in the treatment of obsessive-compulsive disorder. Int Clin Psychopharmacol 15(2):69-76, 2000. doi: 10.1097/00004850-200015020-00002
Tiên lượng
Trong khoảng 5% trẻ em, rối loạn chuyển tiếp sau một vài năm, và trong khoảng 40%, nó chuyển qua người trưởng thành sớm. Điều trị sau đó có thể được dừng lại. Ở những trẻ khác, rối loạn thường có tính mãn tính, nhưng chức năng bình thường thường được duy trì khi đang điều trị. Khoảng 5% trẻ em không đáp ứng với điều trị và vẫn bị suy giảm rất nhiều.
Những điểm chính
Trẻ em thường trải qua những nỗi ám ảnh như lo lắng hoặc sợ hãi hoặc gây tổn thương (ví dụ như mắc bệnh hiểm nghèo, tội lỗi và đi xuống địa ngục, làm bị thương bản thân).
Cưỡng chế (ví dụ rửa, đếm, sắp xếp quá mức) được thực hiện một cách cố ý, thường là để vô hiệu hoặc bù đắp nỗi sợ hãi.
Không thể thực cưỡng chế của họ làm cho trẻ em quá lo lắng và quan tâm.
Thiết lập một mối quan hệ thoải mái với đứa trẻ và duy trì một thái độ không phán xét để đứa trẻ cảm thấy có thể tiết lộ những ám ảnh và áp lực liên quan.
Thử liệu pháp nhận thức-hành vi nếu trẻ có động lực và có thể thực hiện các nhiệm vụ, nhưng có thể cần dùng thuốc (thường là SSRI).