Sự thiếu hụt và sự phụ thuộc vào vitamin D

(Bệnh còi xương, nhuyễn xương)

TheoLarry E. Johnson, MD, PhD, University of Arkansas for Medical Sciences
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 8 2024

Không tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt vitamin D. Sự thiếu hụt làm giảm khoáng hóa xương, gây bệnh còi xương ở trẻ em và chứng nhuyễn xương ở người lớn và có thể góp phần gây loãng xương. Chẩn đoán bao gồm đo nồng độ huyết thanh 25(OH)D (D2 + D3). Điều trị thường bao gồm uống vitamin D; canxi và phosphate được bổ sung nếu cần. Phòng ngừa thường là có thể. Trong một số trường hợp hiếm gặp, các rối loạn di truyền gây ra tình trạng suy giảm chuyển hóa vitamin D (phụ thuộc).

Thiếu hụt vitamin D là thường gặp trên toàn thế giới. Đây là nguyên nhân phổ biến gây ra bệnh còi xương và nhuyễn xương, nhưng những bệnh lý này cũng có thể là kết quả của các tình trạng khác, chẳng hạn như bệnh thận mạn tính, nhiều bệnh lý ống thận khác nhau, bệnh còi xương hạ phosphat máu (kháng vitamin D) có tính gia đình, nhiễm toan chuyển hóa mạn tính, cường cận giáp, suy tuyến cận giáp, chế độ ăn uống không đủ canxi và các bệnh lý hoặc thuốc làm suy yếu quá trình khoáng hóa của chất nền ở xương.

Thiếu hụt vitamin D gây ra tình trạng hạ canxi máu, kích thích sản sinh ra hormone tuyến cận giáp (PTH), gây ra tình trạng cường tuyến cận giáp. Chứng tặng năng chứng cận giáp làm tăng hấp thu, huy động từ xương, và bảo tồn canxi trong thận nhưng tăng bài tiết phosphate. Kết quả là, nồng độ canxi trong huyết thanh có thể bình thường, nhưng do tình trạng hạ phosphat máu nên quá trình khoáng hóa xương bị suy giảm.

Sinh lý học của tình trạng thiếu hụt và phụ thuộc vitamin D

Vitamin D có 2 dạng chính:

  • D2 (ergocalciferol)

  • D3 (cholecalciferol): Dạng hình thành trong tự nhiên và dạng được sử dụng để bổ sung liều thấp

Vitamin D3 được tổng hợp trong da khi tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời (tia cực tím B) và thu được trong chế độ ăn chủ yếu từ dầu gan cá và cá nước mặn (xem bảng Nguồn, Chức năng và Tác dụng của Vitamin). Ở một số quốc gia, sữa và các thực phẩm khác được bổ sung vitamin D. Sữa mẹ có hàm lượng vitamin D thấp, trung bình chỉ có 10% lượng vitamin D trong sữa bò được bổ sung.

Nồng độ vitamin D có thể giảm theo tuổi tác vì quá trình tổng hợp ở da suy giảm. Sử dụng kem chống nắng và tình trạng da sẫm màu cũng làm giảm quá trình tổng hợp vitamin D của da.

Vitamin D là một tiền hormone có một vài chất chuyển hóa có hoạt tính như hormone. Vitamin D được chuyển hóa ở gan thành 25(OH)D (calcifediol, calcidiol, 25-hydroxycholecalciferol hoặc 25-hydroxyvitamin D), sau đó được thận chuyển thành 1,25-dihydroxyvitamin D (1,25-dihydroxycholecalciferol, calcitriol hoặc hormone vitamin D có hoạt tính). 25(OH)D, dạng tuần hoàn chủ yếu, có một số hoạt động trao đổi chất, nhưng 1,25-dihydroxyvitamin D là chất hoạt động chuyển hóa mạnh nhất. Quá trình chuyển đổi thành 1,25-dihydroxyvitamin D được điều chỉnh theo nồng độ của chính chất này, hormone tuyến cận giáp (PTH) và nồng độ canxi và phốt phát trong huyết thanh.

Vitamin D ảnh hưởng đến nhiều hệ cơ quan (xem bảng Tác dụng của Vitamin D và các chất chuyển hóa của vitamin D), nhưng chủ yếu vitamin D làm tăng khả năng hấp thụ canxi và phốt phát từ ruột và thúc đẩy quá trình hình thành xương và khoáng hóa bình thường ở xương.

Vitamin D và các chất tương tự liên quan có thể được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến, suy tuyến cận giáploạn dưỡng xương do thận. Tính hữu ích của vitamin D trong việc giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân hoặc trong việc ngăn ngừa bệnh bạch cầu và ung thư vú, tuyến tiền liệt, đại tràng hoặc các loại ung thư khác vẫn chưa được chứng minh cũng như hiệu quả của vitamin D trong việc điều trị các bệnh lý khác không liên quan đến xương ở người lớn (1–3). Bổ sung vitamin D không điều trị hoặc không ngăn ngừa hiệu quả tình trạng trầm cảm hoặc bệnh tim mạch (4, 5) và có tác dụng không đáng kể trong việc ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính (6). Sử dụng chế độ ăn uống kết hợp theo khuyến nghị của cả vitamin D và canxi có thể hơi làm giảm nguy cơ ngã (7) ở những bệnh nhân thiếu vitamin D, đặc biệt là những người được đưa vào viện dưỡng lão; tuy nhiên, liều lớn vitamin D có thể làm tăng nguy cơ bị gãy xương (8, 9). Vì nguyên nhân gây té ngã là do nhiều yếu tố nên các nghiên cứu khác không phát hiện ra rằng chỉ riêng việc bổ sung vitamin D có thể làm giảm nguy cơ bị té ngã và gãy xương ở người cao tuổi (10, 11).

(Xem thêm Tổng quan về các vitamin.)

Bảng
Bảng

Tài liệu tham khảo sinh lý học

  1. 1. Autier P, Mullie P, Macacu A, et al: Effect of vitamin D supplementation on non-skeletal disorders: A systematic review of meta-analyses and randomised trials. Lancet Diabetes Endocrinol 5 (12):986–1004, 2017. doi: 10.1016/S2213-8587(17)30357-1

  2. 2. Manson JE, Cook NR, Lee IM, et al: Vitamin D supplements and prevention of cancer and cardiovascular disease. N Engl J Med 380(1):33-44, 2019. doi: 10.1056/NEJMoa1809944

  3. 3. Neale RE, Baxter C, Romero BD, et al. The D-Health Trial: a randomised controlled trial of the effect of vitamin D on mortality [published correction appears in Lancet Diabetes Endocrinol. Tháng 4 năm 2022;10(4):e7. doi: 10.1016/S2213-8587(22)00083-3]. Lancet Diabetes Endocrinol. 2022;10(2):120-128. doi:10.1016/S2213-8587(21)00345-4

  4. 4. Okereke OI, Reynolds CF 3rd, Mischoulon D, et al: Effect of long-term vitamin D3 supplementation vs placebo on risk of depression or clinically relevant depressive symptoms and on change in mood scores: A randomized clinical trial. JAMA 324(5):471-480, 2020. doi: 10.1001/jama.2020.10224

  5. 5. Barbarawi M, Kheiri B, Zayed Y, et al: Vitamin D supplementation and cardiovascular disease risks in more than 83.000 individuals in 21 randomized clinical trials: A meta-analysis [published correction appears in JAMA Cardiol 2019 Nov 6]. JAMA Cardiol 4(8):765-776, 2019. doi: 10.1001/jamacardio.2019.1870

  6. 6. Jolliffe DA, Camargo CA Jr, Sluyter JD, et al. Vitamin D supplementation to prevent acute respiratory infections: a systematic review and meta-analysis of aggregate data from randomised controlled trials. Lancet Diabetes Endocrinol. 2021;9(5):276-292. doi:10.1016/S2213-8587(21)00051-6

  7. 7. Ling Y, Xu F, Xia X, et al: Vitamin D supplementation reduces the risk of fall in the vitamin D deficient elderly: an updated meta-analysis. Clin Nutr 40:5531-5537, 2021. doi:10.1016/j.clnu.2021.09.031

  8. 8. Yao P, Bennett D, Mafham M, et al. Vitamin D and Calcium for the Prevention of Fracture: A Systematic Review and Meta-analysis. JAMA Netw Open. 2019;2(12):e1917789. Xuất bản ngày 2 tháng 12 năm 2019. doi:10.1001/jamanetworkopen.2019.17789

  9. 9. Zhao JG, Zeng XT, Wang J, Liu L. Association Between Calcium or Vitamin D Supplementation and Fracture Incidence in Community-Dwelling Older Adults: A Systematic Review and Meta-analysis. JAMA. 2017;318(24):2466-2482. doi:10.1001/jama.2017.19344

  10. 10. Appel LJ, Michos ED, Mitchell CM, et al: The effects of four doses of vitamin D supplements on falls in older adults: a response-adaptive, randomized clinical trial. Ann Intern Med 174:145-156, 2021. doi:10.7326/M20-3812

  11. 11. LeBoff MS, Chou SH, Ratliff KA, et al. Supplemental Vitamin D and Incident Fractures in Midlife and Older Adults. N Engl J Med. 2022;387(4):299-309. doi:10.1056/NEJMoa2202106

Căn nguyên của thiếu hụt và phụ thuộc vitamin D

Thiếu hụt vitamin D có thể là do:

  • Tiếp xúc không đầy đủ với ánh sáng mặt trời

  • Lượng vitamin D đưa vào không đầy đủ

  • Giảm hấp thu vitamin D

  • Chuyển hóa bất thường của vitamin D

  • Kháng với tác dụng của vitamin D

Tiếp xúc hoặc đưa vào không đầy đủ

Tiếp xúc ánh nắng mặt trời trực tiếp không đầy đủ hoặc sử dụng phương tiện chống nắng và lượng đưa vào không thích hợp thường xuất hiện đồng thời dẫn đến sự thiếu hụt lâm sàng. Những người dễ bị mắc bao gồm

  • Người cao tuổi (thường bị thiếu dinh dưỡng và không được tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời)

  • Một số cộng đồng cụ thể (ví dụ: phụ nữ và trẻ em bị bó buộc tại nhà hoặc mặc quần áo che phủ toàn bộ cơ thể và mặt)

Tình trạng thiếu dự trữ vitamin D thường gặp ở người cao tuổi, đặc biệt là những người không thể ra khỏi nhà, sống trong viện dưỡng lão, nằm viện hoặc những người đã từng bị gãy xương hông.

Tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời được khuyến nghị là từ 5 đến 15 phút (liều dưới da) tới các tay và chân hoặc tới mặt, cánh tay và chân, ít nhất 3 lần một tuần. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ da liễu không khuyến cáo tăng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời vì nguy cơ ung thư da tăng lên.

Giảm sự hấp thu

Tình trạng kém hấp thu có thể làm cơ thể mất vitamin D từ chế độ ăn uống; chỉ một lượng nhỏ 25(OH)D được tái tuần hoàn qua đường ruột gan.

Chuyển hóa bất thường

Thiếu hụt vitamin D có thể là do khiếm khuyết trong quá trình sản sinh ra 25(OH)D hoặc 1,25-dihydroxyvitamin D. Những người mắc bệnh thận mạn tính có thể bị còi xương hoặc nhuyễn xương do quá trình sản sinh ra 1,25-dihydroxyvitamin D ở thận bị giảm và nồng độ phốt phát tăng cao. Rối loạn chức năng gan cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình sản sinh ra các chất chuyển hóa vitamin D có hoạt tính.

Bệnh còi xương phụ thuộc vitamin D do di truyền loại I là một rối loạn gen lặn trên nhiễm sắc thể thường đặc trưng bởi không có hoặc khiếm khuyết quá trình chuyển 25(OH)D thành 1,25-dihydroxyvitamin D ở thận. Trong tình trạng giảm phốt phát máu có tính chất gia đình liên kết nhiễm sắc thể X, giảm tái hấp thu phốt phát quá trình lọc cầu thận ở thận với nồng độ 1,25-dihydroxyvitamin D thấp hoặc không bình thường dẫn đến biến dạng xương.

Nhiều loại thuốc chống co giật và glucocorticoid làm tăng nhu cầu bổ sung vitamin D vì chúng cản trở quá trình chuyển hóa vitamin D.

Đề kháng ảnh hưởng của vitamin D

Bệnh còi xương do di truyền phụ thuộc vitamin D loại II có nhiều dạng và là do đột biến ở thụ thể 1,25-dihydroxyvitamin D. Thụ thể này ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa 1,25-dihydroxyvitamin D trong ruột, thận, xương và các tế bào khác. Ở bệnh này, 1,25-dihydroxyvitamin D là dư thừa nhưng không hiệu quả vì thụ thể không có chức năng.

Các triệu chứng và dấu hiệu của tình trạng thiếu hụt và phụ thuộc vitamin D

Thiếu hụt vitamin D có thể gây đau nhức cơ, yếu cơ và đau xương ở mọi lứa tuổi.

Thiếu hụt vitamin D ở phụ nữ mang thai sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt vitamin D ở thai nhi. Đôi khi, sự thiếu hụt nghiêm trọng đủ để gây ra bệnh nhuyễn xương ở mẹ dẫn đến bệnh còi xương với tổn thương hành xương ở trẻ sơ sinh.

Ở trẻ nhỏ, bệnh còi xương làm mềm toàn bộ sọ (bệnh nhũn sọ). Khi sờ nắn, xương chẩm và xương đỉnh sau có thể thụt vào dễ dàng.

Ở những trẻ lớn hơn bị bệnh còi xương, ngồi và bò cũng bị chậm, cũng như việc đóng thóp; trán bị lồi và sườn sụn dày lên. Sườn sụn dày lên có thể trông giống như những viên bi nổi dọc theo thành bên ngực (chuỗi tràng hạt còi xương).

Ở trẻ em từ 1 đến 4 tuổi, sụn khớp ở các đầu dưới của xương quay, xương trụ, xương chày và xương mác phồng to; gây gù vẹo cột sống, và chậm biết đi.

Ở trẻ lớn và thanh thiếu niên, việc đi bộ sẽ gây đau đớn; trong những trường hợp nghiêm trọng, có thể gây ra các dị tật như chân vòng kiềngchân hình chữ X. Xương chậu có thể bị phẳng, thu hẹp ống sinh ở trẻ gái vị thành niên.

Co cứng là do hạ canxi huyết và có thể đi kèm với tình trạng thiếu hụt vitamin D ở trẻ sơ sinh hoặc người lớn. Co cứng có thể gây chứng dị cam môi, lưỡi, và ngón tay; sự co thắt bàn tay, bàn chân và mặt; và, nếu rất nặng, động kinh. Sự thiếu hụt ở người mẹ mang thai có thể gây ra co cứng ở trẻ sơ sinh.

Bệnh nhuyễn xương có khuynh hướng gây gãy xương. Ở người cao tuổi, gãy khớp háng có thể chỉ là hậu quả của chấn thương nhỏ.

Chẩn đoán tình trạng thiếu hụt và phụ thuộc vitamin D

  • Mức 25(OH)D (D2 + D3)

Có thể nghi ngờ thiếu hụt vitamin D dựa trên bất kỳ dấu hiệu nào sau đây:

  • Một tiền sử không đủ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hoặc lượng ăn vào

  • Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh còi xương, bệnh nhuyễn xương, hoặc co cứng ở trẻ sơ sinh

  • Những thay đổi đặc trưng của xương được nhìn thấy trên phim chụp X-quang

Cần các phim chụp X-quang xương quay và xương trụ cùng với nồng độ canxi, phốt phát, phosphatase kiềm, hormone tuyến cận giáp (PTH) và 25(OH)D trong huyết thanh để phân biệt tình trạng thiếu hụt vitamin D với các nguyên nhân khác gây mất khoáng trong xương.

Có thể cân nhắc việc đánh giá tình trạng vitamin D và xét nghiệm huyết thanh tìm giang mai đối với trẻ sơ sinh bị chứng nhuyễn sọ dựa trên tiền sử bệnh và khám thực thể, nhưng hầu hết các trường hợp nhuyễn sọ đều tự khỏi. Bệnh còi xương có thể phân biệt được với chứng loạn dưỡng sụn bởi vì loạn dưỡng sụn có đặc điểm là đầu to, các chi ngắn, xương dày và mức độ canxi, phosphate, và phosphatase kiềm trong huyết thanh bình thường.

Co cứng vì bệnh còi xương trẻ sơ sinh có thể không phân biệt được trên lâm sàng với các cơn co giật do các nguyên nhân khác. Xét nghiệm máu và tiền sử lâm sàng có thể giúp phân biệt chúng.

Các phim chụp X-quang

Những thay đổi ở xương, được quan sát thấy trên phim chụp X-quang, xuất hiện trước các dấu hiệu lâm sàng. Ở bệnh còi xương, sự thay đổi là rõ ràng nhất ở các đầu dưới của xương quay và xương trụ. Các đường viền ở phần cuối thân xương bị mất tính sắc nét và rõ ràng; chúng có hình chén và cho thấy sự loãng dạng điểm hoặc hình tua. Sau đó, bởi vì phần cuối xương quay và xương trụ trở nên không được vôi hóa và thấu quang, khoảng cách giữa chúng và các xương bàn tay có vẻ như tăng lên. Chất nền xương ở nơi khác cũng trở nên thấu quang hơn. Các dị dạng đặc trưng xuất phát do xương bị uốn cong tại mối nối giữa thân xương và sụn vì thân xương bị yếu. Khi quá trình hồi phục bắt đầu, một đường khoáng hóa mỏng màu trắng xuất hiện ở đầu xương, nó trở nên đặc và dày hơn khi vôi hoá tiển triển. Sau đó, chất nền xương trở nên cứng và đục ở mức dưới màng xương.

Ở người lớn, tình trạng mất khoáng trong xương, đặc biệt là ở cột sống, xương chậu và các chi dưới, có thể quan sát thấy trên các phim chụp X-quang; các phiến xơ cũng có thể quan sát thấy và các vùng mất khoáng dạng dải không hoàn chỉnh (gãy xương giả, đường Looser, hội chứng Milkman) xuất hiện ở vỏ xương.

Xét nghiệm

Bởi vì nồng độ 25(OH)D trong huyết thanh phản ánh lượng vitamin D dự trữ trong cơ thể và tương quan với các triệu chứng và dấu hiệu thiếu hụt vitamin D tốt hơn so với nồng độ các chất chuyển hóa vitamin D khác, nên cách tốt nhất để chẩn đoán tình trạng thiếu hụt vitamin D thường là đo

  • mức 25(OH)D (D2 + D3)

Nồng độ mục tiêu của 25(OH)D là > 20 đến 24 ng/mL (khoảng 50 đến 60 nmol/L) cho sức khoẻ xương tốt nhất; liệu nồng độ cao hơn có những lợi ích khác hay không vẫn còn chưa chắc chắn và mức hấp thu canxi cao hơn có thể làm tăng nguy cơ bị bệnh động mạch vành.

Nếu chẩn đoán không rõ ràng, nồng độ huyết thanh của 1,25-dihydroxyvitamin D và nồng độ canxi trong nước tiểu có thể được đo. Trong tình trạng sự thiếu hụt nghiêm trọng, mức 1,25-dihydroxyvitamin D huyết thanh thấp bất thường, thường là không đo được. Canxi trong nước tiểu thấp ở tất cả các dạng thiếu hụt, ngoại trừ trong những bệnh liên quan đến chứng nhiễm toan.

Khi thiếu hụt vitamin D, nồng độ canxi trong huyết thanh có thể thấp hoặc có thể bình thường do cường cận giáp thứ phát. Phosphat huyết thanh thường giảm, và phosphatase kiềm trong huyết thanh thường tăng lên. PTH huyết thanh có thể bình thường hoặc cao.

Bệnh còi xương do di truyền phụ thuộc vitamin D loại I dẫn đến nồng độ 25(OH)D trong huyết thanh bình thường, nồng độ 1,25-dihydroxyvitamin D và canxi trong huyết thanh thấp, nồng độ phốt phát trong huyết thanh bình thường hoặc thấp.

Điều trị thiếu hụt và phụ thuộc vitamin D

  • Hiệu chỉnh sự thiếu hụt canxi và phosphate

  • Bổ sung vitamin D

Thiếu canxi (thường gặp) và thiếu phosphate cần được hiệu chỉnh.

Chỉ cần bổ sung đủ canxi và phốt phát, người lớn bị còi xương và trẻ em bị còi xương không biến chứng có thể chữa khỏi bằng cách uống vitamin D3 40 mcg (1.600 đơn vị quốc tế [IU]) một lần mỗi ngày. 25 (OH) D huyết thanh và 1,25-dihydroxyvitamin D bắt đầu tăng trong vòng 1 hoặc 2 ngày. Canxi và phosphat huyết thanh tăng và phosphatase kiềm huyết thanh giảm trong vòng khoảng 10 ngày. Trong tuần thứ ba, đủ canxi và phốt phát lắng đọng trong xương để có thể nhìn thấy trên phim chụp X-quang. Sau khoảng 1 tháng, thường có thể giảm dần liều xuống mức duy trì thông thường là 15 mcg (600 IU) một lần/ngày.

Nếu bị co cứng, cần bổ sung vitamin D bằng muối canxi tiêm tĩnh mạch trong tối đa 1 tuần (xem phần Hạ canxi máu).

Một số bệnh nhân cao tuổi cần vitamin D3 từ 25 mcg đến > 50 mcg (1000 đến 2000 IU) mỗi ngày để duy trì mức 25(OH)D > 20 ng/mL (> 50 nmol/L); liều này cao hơn chế độ ăn uống theo khuyến nghị dành cho những người < 70 tuổi (600 IU) hoặc > 70 tuổi (800 IU). Giới hạn trên hiện tại đối với vitamin D là 4000 IU/ngày. Đôi khi, liều vitamin D2 cao hơn (ví dụ: 25.000 đến 50.000 IU mỗi tuần một lần hoặc mỗi tháng một) được kê đơn; tuy nhiên, vì vitamin D3 hiệu lực hơn vitamin D2 nên hiện nay người ta ưu tiên hơn.

Do bệnh còi xương và nhuyễn xương do khiếm khuyết quá trình sản sinh ra chất chuyển hóa vitamin D nên các bệnh này kháng vitamin D và không đáp ứng với liều thường có hiệu quả đối với bệnh còi xương do lượng đưa vào không đủ. Đánh giá nội tiết cần được thực hiện vì điều trị phụ thuộc vào khiếm khuyết cụ thể. Khi quá trình sản sinh 25(OH)D bị khiếm khuyết, vitamin D3 50 mcg (2.000 IU) một lần mỗi ngày sẽ làm tăng nồng độ trong huyết thanh và dẫn đến cải thiện trên lâm sàng. Bệnh nhân bị rối loạn thận thường cần bổ sung 1,25-dihydroxyvitamin D (calcitriol).

Bệnh còi xương do di truyền phụ thuộc vitamin D loại I đáp ứng với 1,25-dihydroxyvitamin D 1 mcg đến 2 mcg uống một lần mỗi ngày. Một số bệnh nhân bị còi xương do di truyền phụ thuộc vitamin D loại II đáp ứng với liều rất cao (ví dụ: 10 đến 24 mcg/ngày) 1,25-dihydroxyvitamin D; những bệnh nhân khác cần truyền canxi trong thời gian dài.

Phòng ngừa thiếu hụt và phụ thuộc vitamin D

Tư vấn chế độ ăn uống đặc biệt quan trọng đối với những người trong cộng đồng có nguy cơ bị thiếu hụt vitamin D.

Tăng cường bột chapati không lên men với vitamin D (125 mcg/kg) đã có hiệu quả trong số những người nhập cư Ấn Độ ở Anh.

Lợi ích của việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời đối với tình trạng vitamin D phải được cân nhắc so với nguy cơ gia tăng tổn thương da và ung thư da.

Tất cả trẻ sơ sinh bú sữa mẹ nên được bổ sung 10 mcg (400 IU) vitamin D một lần một ngày từ khi mới sinh đến 6 tháng tuổi; khi được 6 tháng tuổi, chế độ ăn uống đa dạng hơn sẽ được áp dụng. Chưa có chứng minh về bất kỳ lợi ích nào của liều cao hơn mức khuyến nghị trong chế độ ăn uống.

Sàng lọc

Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Phòng ngừa Hoa Kỳ đã kết luận rằng không có đủ bằng chứng để đánh giá lợi ích và tác hại của việc sàng lọc tình trạng thiếu hụt vitamin D ở người lớn không có triệu chứng (1). Các hội nội tiết tại Hoa Kỳ, Châu Âu và các quốc gia khác đã công bố hướng dẫn thực hành lâm sàng cho những người không có chỉ định nào khác về việc bổ sung hoặc xét nghiệm vitamin D. Hướng dẫn này khuyến nghị không nên bổ sung vitamin D theo kinh nghiệm hoặc sàng lọc 25(OH)D ở những người từ 18 tuổi đến 74 tuổi, bao gồm cả người lớn bị béo phì hoặc có sắc tố da sẫm màu. Lượng vitamin D3 bổ sung được khuyến nghị trong chế độ ăn uống có thể có lợi cho những người trên 75 tuổi, những người có nguy cơ cao mắc tiền tiểu đường và phụ nữ mang thai, nhưng không cần xét nghiệm 25(OH)D thường quy (2).

Tài liệu tham khảo về sàng lọc bệnh

  1. 1. US Preventive Services Task Force, Krist AH, Davidson KW, et al. Screening for Vitamin D Deficiency in Adults: US Preventive Services Task Force Recommendation Statement. JAMA. 2021;325(14):1436-1442. doi:10.1001/jama.2021.3069

  2. 2. Demay MB, Pittas AG, Bikle DD, et al. Vitamin D for the Prevention of Disease: An Endocrine Society Clinical Practice Guideline. J Clin Endocrinol Metab. Xuất bản trực tuyến ngày 3 tháng 6 năm 2024 doi:10.1210/clinem/dgae290

Những điểm chính

  • Thiếu hụt vitamin D rất phổ biến và là kết quả của việc không tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời và chế độ ăn uống không đầy đủ (thường xảy ra cùng lúc) và/hoặc do bệnh thận mạn tính.

  • Sự thiếu hụt có thể gây đau nhức bắp cơ, yếu, đau xương, và chứng nhuyễn xương.

  • Nghi ngờ thiếu hụt vitamin D ở những bệnh nhân ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và chế độ ăn uống thấp, các triệu chứng và dấu hiệu điển hình (ví dụ: còi xương, đau nhức cơ, đau xương) hoặc mất khoáng trong xương được quan sát thấy trên phim chụp X-quang.

  • Để xác nhận chẩn đoán, hãy đo nồng độ 25(OH)D (D2 + D3).

  • Để điều trị tình trạng thiếu hụt vitamin D, cần điều chỉnh tình trạng thiếu hụt canxi và phốt phát và bổ sung vitamin D.