Phù gai thị

TheoJohn J. Chen, MD, PhD, Mayo Clinic
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 6 2024

Phù gai là tình trạng phù của gai thị do tăng áp lực nội sọ. Gai thị phồng lên không do tăng áp lực nội so (ví dụ tăng huyết áp ác tính, tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc) không được coi là phù gai. Thường không có triệu chứng thị giác sớm, mặc dù thị lực có thể tối đi trong vài giây không liên tục (nhìn mờ thoáng qua). Phù gai thị đòi hỏi phải tìm kiếm nguyên nhân. Chẩn đoán là dựa vào soi đáy mắt phối hợp với các xét nghiệm khác, thường là chẩn đoán hình ảnh sọ não và đôi lúc là chọc dịch não tủy sau đó để xác định nguyên nhân. Điều trị là tập trung vào giải quyết bệnh nền.

Phù gai là triệu chứng của tăng áp lực nội sọ và luôn là hai bên. Nguyên nhân bao gồm:

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Crum OM, Kilgore KP, Sharma R, et al: Etiology of papilledema in patients in the eye clinic setting. JAMA Netw Open 3(6):e206625, 2020.  doi:10.1001/jamanetworkopen.2020.6625

Các triệu chứng và dấu hiệu của phù Papilledema

Ở những bệnh nhân phù gai, thị lực thường không bị ảnh hưởng ban đầu, nhưng có thể có hiện tượng nhìn mờ thoáng qua hoặc song thị. Bệnh nhân có thể có các triệu chứng tăng áp lực nội sọ như đau đầu hoặc nôn và buồn nôn.

Soi đáy mắt thấy tĩnh mạch võng mạc giãn ngoằn ngoèo, gai thị phù và cương tụ, xuất huyết võng mạc quanh gai nhưng không lan ra chu biên. Phù đĩa thị (ví dụ: do viêm dây thần kinh thị giác hoặc bệnh thần kinh thị giác do thiếu máu cục bộ) mà không tăng áp lực nội sọ không được coi là phù gai thị.

Trong giai đoạn ban đầu của phù gai, thị lực và phản xạ đồng tử bình thường và bất thường chỉ khi bệnh đã tiến triển nặng. Đánh giá thị trường có thể thấy điểm mù mở rộng. Sau đó, kiểm tra trường thị giác có thể cho thấy mất thị lực ngoại vi với các khuyết tật vòng cung kéo theo các khuyết tật bó sợi thần kinh.

Chẩn đoán phù Papilledema

  • Đánh giá lâm sàng

  • Lập tức thực hiện chẩn đoán hình ảnh

Mức độ phù gai có thể được định lượng bằng kính cộng cần dùng trên soi đáy mắt để hội tụ vào điểm gồ cao nhất trên gai thị và vào phần bình thường của võng mạc. Mức độ phù cũng có thể được định lượng bằng cách đo độ dày lớp sợi thần kinh thông qua sử dụng chụp cắt lớp quang học (OCT); OCT được thực hiện để định lượng mức độ phù gai để theo dõi tiến triển của bệnh.

Phân biệt phù gai thị do áp lực nội sọ tăng cao với các nguyên nhân khác gây sưng đĩa thị giác, chẳng hạn như viêm dây thần kinh thị giác, bệnh thần kinh thị giác do thiếu máu cục bộ, nhược điểm (nhãn áp 5 mm Hg), tắc tĩnh mạch võng mạc trung tâm, viêm màng bồ đào, hoặc các đĩa đệm bị sưng giả (ví dụ: drusen dây thần kinh thị giác), cần được đánh giá nhãn khoa kỹ lưỡng.

Siêu âm B-scan, OCT, và tự phát huỳnh quang Fundus là những công cụ chẩn đoán tốt nhất cho chứng phù đĩa đệm giả của drusen dây thần kinh thị giác. Nếu nghi ngờ phù gai thị trên lâm sàng, chụp cộng hưởng từ (MRI) não có thuốc cản quang gadolinium hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT) có thuốc cản quang được thực hiện ngay để loại trừ các nguyên nhân như khối nội sọ. Chụp tĩnh mạch MR hoặc chụp CT tĩnh mạch thường được thực hiện để loại trừ huyết khối xoang tĩnh mạch màng cứng.

Chọc dịch não tủy chỉ chọc dịch não tủy khi đã loại trừ u nội nhãn. Chọc dò thắt lưng ở bệnh nhân có u nội sọ có thể dẫn đến thoát vị thân não. Nếu không nhìn thấy khối trên phim chụp MRI, áp lực mở tăng cao và các nguyên nhân khác gây tăng áp lực nội sọ đã được loại trừ, chẩn đoán là tăng áp lực nội sọ vô căn (IIH), đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây tăng áp lực nội sọ.

Điều trị phù nề

  • Điều trị bệnh nền

Điều trị khẩn cấp bệnh nền gây tăng áp lực nội sọ. Đối với tăng áp lực nội sọ vô căn, giảm cân và dùng thuốc, chẳng hạn như acetazolamide hoặc topiramate, là những liệu pháp điều trị bước một. Phẫu thuật thường được dành riêng cho phù gai thị đe dọa thị lực nghiêm trọng không đáp ứng với thuốc, bao gồm dẫn lưu não thất-ổ bụng, mở cửa sổ thần kinh thị giác và đặt stent xoang tĩnh mạch não. Nếu áp lực nội sọ không giảm, có thể xảy ra teo dây thần kinh thị giác thứ phát và mất thị lực.

Những điểm chính

  • Phù gai thị là phù đĩa thị do tăng áp lực nội sọ.

  • Bên cạnh cương tụ và vồng gai thị hai bên, bệnh nhân thường có tĩnh mạch võng mạc giãn ngoằn ngoèo, xuất huyết võng mạc quanh gai nhưng không lan ra chu biên.

  • Các bất thường võng mạc thường xuất hiện trước bất thường thị lực.

  • Khi chẩn đoán hình ảnh loại trừ u não thì có thể chọc dịch não tủy để đánh giá áp lực nội so và phân tích thành phần.

  • Điều trị bệnh nền.