- Tổng quan về các khoáng chất
- Sự thiếu hụt crom
- Độc tính Crom
- Thiếu đồng
- Độc tính đồng
- Bệnh Wilson
- sự thiếu hụt Fluor
- Độc tố fluor
- Sự thiết hụt chất i-ốt
- Độc tính của i-ốt
- Sự thiếu hụt sắt
- Độc tính sắt
- Thiếu hụt Mangan
- Ngộ độc Mangan
- Thiếu hụt Molybden
- Độc tính của Molybden
- Thiếu hụt Selen
- Nhiễm độc Selen
- Sự thiếu hụt kẽm
- Nhiễm độc kẽm
Sắt (Fe) là một thành phần của hemoglobin, myoglobin, và nhiều enzyme trong cơ thể. Sắt heme được chứa chủ yếu trong các sản phẩm động vật. Nó được hấp thụ tốt hơn nhiều so với sắt nonheme (ví dụ: trong thực vật và trong ngũ cốc). Sắt non heme chiếm > 85% lượng sắt trong khẩu phần ăn trung bình. Tuy nhiên, sự hấp thu sắt không heme được tăng lên khi được tiêu thụ với protein động vật và vitamin C.
(Xem thêm Tổng quan về thiếu hụt khoáng chất và độc tính.)
Sắt có thể tích tụ trong cơ thể bởi vì
Đưa vào quá nhiều khối lượng sắt khi điều trị hoặc trong thời gian quá dài
Truyền máu lặp lại
Bệnh gan liên quan đến rượu
Quá liều sắt
Tình trạng quá liều sắt cũng có thể là kết quả bệnh thừa sắt di truyền (bệnh thừa sắt), nó có thể gây tử vong nhưng cũng dễ điều trị, rối loạn có quá nhiều sắt được hấp thu. Bệnh thừa sắt ảnh hưởng > 1 triệu người Mỹ.
Quá liều sắt là độc hại, gây nôn ói, tiêu chảy, tổn thương ruột và các cơ quan khác.
Chẩn đoán nhiễm độc sắt dựa trên đánh giá lâm sàng và đôi khi (ví dụ: trong nhiễm độc mạn tính) cần phải có xác nhận bằng nồng độ sắt và ferritin huyết thanh.
Điều trị nhiễm độc sắt thường dùng deferoxamine, thuốc này liên kết với sắt và được bài tiết qua nước tiểu. Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô được điều trị bằng thủ thuật mở tĩnh mạch.