Đánh giá bệnh nhân sản khoa

TheoRaul Artal-Mittelmark, MD, Saint Louis University School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 7 2024

Lý tưởng nhất là bệnh nhân có kế hoạch mang thai và người phối ngẫu của họ nên gặp bác sĩ sản khoa để khám trước khi thụ thai. Ở lần khám này bác sĩ lâm sàng xem xét các biện pháp phòng ngừa chung có sẵn trước khi mang thai. Bác sĩ lâm sàng cũng xem xét bệnh sử, sản khoa và gia đình của cả bệnh nhân và người phối ngẫu (hoặc người hiến, nếu tinh trùng của người hiến sẽ được sử dụng và có bệnh sử của người hiến). Bác sĩ lâm sàng khuyên bệnh nhân về việc kiểm soát các bệnh mạn tính hoặc thuốc hoặc tiêm chủng trước khi mang thai. Bệnh nhân và người phối ngẫu được giới thiệu đến tư vấn di truyền, nếu thích hợp.

Là một phần của việc chăm sóc trước khi thụ thai, các bác sĩ lâm sàng nên khuyên tất cả phụ nữ đang có kế hoạch hoặc có thể mang thai uống một loại vitamin có chứa axit folic (folate) từ 400 đến 800 mcg (0,4 đến 0,8 mg) một lần một ngày (1). Axit folic làm giảm nguy cơ dị tật ống thần kinh. Nếu phụ nữ đã có thai hoặc trẻ sơ sinh có khuyết tật ống thần kinh, liều hàng ngày được khuyên dùng là 4000 mcg (4 mg).

Khi mang thai, phụ nữ nên được chăm sóc trước khi sinh theo thường quy để theo dõi thai kỳ và phát hiện hoặc ngăn ngừa các biến chứng của mẹ hoặc thai nhi. Ngoài ra, cần phải khám bệnh từ 1 tuần đến 4 tuần một lần để theo dõi và đánh giá các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh.

Các rối loạn sản khoa cụ thể và các bệnh không liên quan đến sản khoa ở phụ nữ mang thai được thảo luận ở phần khác trong CẨM NANG.

Lần khám thai định kỳ đầu tiên nên vào giữa 6 và 8 tuần tuổi thai.

Các lần khám sau đó thường vào các thời điểm:

  • Khoảng 4 tuần một lần cho đến 28 tuần

  • Khoảng 2 tuần từ 28 đến 36 tuần

  • Hàng tuần từ 36 tuần đến khi sinh

Các lần khám trước khi sinh có thể được lên lịch thường xuyên hơn nếu có nguy cơ cao bị các biến chứng sản khoa.

Chăm sóc trước sinh bao gồm:

  • Sàng lọc và kiểm soát các bệnh nội khoa nói chung, các bệnh truyền nhiễm và rối loạn tâm thần

  • Sàng lọc các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe

  • Thảo luận về tiền sử bị bệnh sản khoa trước đây (ví dụ: tiểu đường thai kỳ, tiền sản giật, sinh non)

  • Cung cấp sàng lọc các rối loạn nhiễm sắc thể ở thai nhi

  • Thực hiện các biện pháp giảm nguy cơ thai nhi và mẹ

  • Theo dõi bệnh mới ở mẹ hoặc các biến chứng sản khoa

  • Theo dõi sự tăng trưởng và phát triển của thai nhi

  • Tăng cường sức khỏe và giáo dục bệnh nhân

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. US Preventive Services Task Force: Final Recommendation Statement, Folic Acid Supplementation to Prevent Neural Tube Defects: Preventive Medication, ngày 01 tháng 8 năm 2023

Bệnh sử ở bệnh nhân sản khoa

Trong lần khám đầu tiên, bác sĩ lâm sàng phải thu thập đầy đủ bệnh sử, bao gồm:

  • Tiền sử sản khoa, với kết quả của tất cả các lần mang thai trước, bao gồm các biến chứng của mẹ và thai nhi (ví dụ như tiểu đường thai kỳ, tiền sản giật, dị dạng bẩm sinh, thai chết lưu)

  • Bệnh sử, bao gồm tiền sử phẫu thuật và tâm thần

  • Tiền sử gia đình, để xác định bất kỳ bệnh nền nào

  • Thuốc (bao gồm thuốc không kê đơn), thực phẩm bổ sung, sử dụng ma túy bất hợp pháp và phơi nhiễm độc tố tiềm ẩn

  • Các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe

  • Các yếu tố nguy cơ gây biến chứng thai kỳ

Trong lần khám đầu tiên và các lần khám tiếp theo, bệnh nhân nên được hỏi về các triệu chứng có thể gây biến chứng thai kỳ (ví dụ: ra máu âm đạo, rò rỉ dịch, đau vùng chậu hoặc đau bụng, đau đầu, thay đổi thị lực, phù mặt ở hoặc ở ngón tay, thay đổi tần suất hoặc cường độ cử động của thai nhi).

Mang thai và đẻ

Tiền sử sản khoa cơ bản được ghi lại theo một định dạng cụ thể, ghi nhận có mang và số lần mang thai và sinh nở của phụ nữ.

Số lần mang thai (G) là số lần mang thai được xác nhận; gravida là thuật ngữ chỉ một người đã có ít nhất 1 lần mang thai.

Số lần mang thai và sinh nở của phụ nữ (P) là số lần sinh khi được ≥ 20 tuần tuổi thai. Các con số của số lần mang thai và sinh nở của phụ nữ được ghi lại cùng với các kết quả thai kỳ khác:

Mang thai đa thai được tính là 1 lần mang thai theo số lần sinh và đối với tất cả các lần sinh, ngoại trừ những đứa con còn sống (ví dụ: đối với một phụ nữ đã từng mang thai đơn và mang thai đôi và tất cả những đứa con đều còn sống, thì được ghi là 3).

Trong định dạng tài liệu này, các con số được ghi lại là:

  • G (số lần có mang) P (số của số lần mang thai và sinh nở của phụ nữ, được ghi nhận là 4 số cho các lần mang thai đủ tháng, sinh non, sẩy thai và trẻ còn sống)

Ví dụ: tiền sử của một bệnh nhân đã có 1 lần sinh thai đủ tháng, 1 cặp sinh đôi sinh ra ở tuần thứ 32, 1 lần sẩy thai tự nhiên và 1 lần mang thai ngoài tử cung được ghi nhận là G4 P1-1-2-3.

Khám thực thể cho bệnh nhân sản khoa

Một cuộc kiểm tra tổng thể đầy đủ, bao gồm huyết áp, chiều cao và cân nặng, được thực hiện trước tiên. BP và cân nặng nên được đo tại mỗi lần khám thai. Một mẫu nước tiểu được thu thập và kiểm tra bằng que thử protein và các dấu hiệu phù hợp với nhiễm trùng.

Trong lần khám sản khoa ban đầu, khám vùng chậu toàn diện được thực hiện để:

  • Ước tính tuổi thai dựa trên kích thước tử cung

  • Kiểm tra các bất thường của tử cung (ví dụ: u cơ trơn) hoặc ấn đau

  • Kiểm tra xem có tổn thương, khí hư hoặc ra máu không

  • Lấy mẫu cổ tử cung để xét nghiệm

Khám vùng chậu thường chỉ được lặp lại nếu có triệu chứng (ví dụ: ra máu hoặc khí hư âm đạo, đau vùng chậu). Bắt đầu từ khoảng tuần thứ 37, có thể tiến hành khám cổ tử cung bằng ngón tay vô trùng để kiểm tra độ giãn nở và xóa cổ tử cung.

Tuổi thai có thể ước tính thông qua khám thực thể, mặc dù những ước tính này không chính xác và ngày dự sinh phải được xác định dựa trên kỳ kinh cuối cùng và các phép đo siêu âm. Cách tiếp cận thông thường như sau:

  • < 12 tuần: Tuổi thai được ước tính dựa trên kích thước tử cung khi khám vùng chậu bằng hai tay. Theo truyền thống, hướng dẫn chung là tử cung của thai kỳ 6 tuần sẽ giống như một quả cam nhỏ, 8 tuần giống như một quả cam lớn và 12 tuần giống như một quả bưởi (1); độ chính xác có thể được cải thiện theo kinh nghiệm lâm sàng.

  • 12 tuần: Có thể sờ thấy đáy tử cung ở ngang khớp mu.

  • 16 tuần: Đáy tử cung nằm ở điểm giữa mức khớp mu và rốn.

  • 20 tuần: U đáy tử cung ở ngang mức rốn.

  • > 20 tuần: Đo từ khớp mu đến đáy tử cung theo cm xấp xỉ tương quan với tuổi thai.

Khám thực thể để ước tính tuổi thai không chính xác nếu có lý do khiến tử cung to thêm, chẳng hạn như u cơ tử cung hoặc mang đa thai.

Vào cuối ba tháng thứ ba của thai kỳ, việc sờ nắn thai nhi qua bụng được sử dụng để đánh giá tư thế của thai nhi và ước tính cân nặng của thai nhi (xem hình Thủ thuật Leopold).

Theo truyền thống, đo khung chậu lâm sàng được thực hiện để ước tính dung tích khung chậu và mô tả loại khung chậu (dạng nữ, dạng nam, dạng người hay chậu hông dẹt), với mục đích dự đoán mức cần thiết phải sinh thường qua đường âm đạo có forcep hoặc giác hút hoặc sinh mổ. Điều này dựa trên các chỉ số đo đường vào vùng chậu bằng cách khám vùng chậu, phim chụp X-quang, chụp CT hoặc chụp MRI. Tuy nhiên, đo khung chậu trên lâm sàng hiếm khi được sử dụng trong thực hành lâm sàng hiện nay vì nó chưa được chứng minh là hiệu quả hơn thử nghiệm chuyển dạ trong việc dự đoán phương thức sinh nở (2).

Nhịp tim thai được đo ở mỗi lần khám.

Công cụ tính toán lâm sàng

Tài liệu tham khảo về khám thực thể

  1. 1. Margulies R, Miller L. Fruit size as a model for teaching first trimester uterine sizing in bimanual examination. Obstet Gynecol. 2001;98(2):341-344. doi:10.1016/s0029-7844(01)01406-5

  2. 2. Pattinson RC, Cuthbert A, Vannevel V: Pelvimetry for fetal cephalic presentations at or near term for deciding on mode of delivery. Cochrane Database Syst Rev. 2017;3(3):CD000161. Xuất bản ngày 30 tháng 3 năm 2017. doi:10.1002/14651858.CD000161.pub2

Các triệu chứng và dấu hiệu mang thai

Mang thai có thể khiến ngực to ra và hơi đau do nồng độ estrogen (chủ yếu) và progesterone tăng cao, tương tự như tình trạng ngực to ra trước kỳ kinh nguyệt.

Buồn nôn và nôn ói có thể xảy ra do tình trạng tăng tiết estrogen và tiểu đơn vị beta của gonadotropin màng đệm ở người (beta-hCG) bởi các tế bào hợp bào của nhau thai, bắt đầu từ 10 ngày sau khi thụ tinh (xem phần Thụ thai và phát triển trước khi sinh). Các hoàng thể trong buồng trứng, kích thích bởi beta-hCG, tiếp tục giải phóng một lượng lớn estrogenprogesterone để duy trì sự mang thai. Nhiều phụ nữ trở nên mệt mỏi vào thời gian này, và một vài phụ nữ nhận thấy bụng chướng rất sớm.

Phụ nữ thường bắt đầu cảm thấy chuyển động của bào thai từ tuần thứ 16 đến 20.

Trong giai đoạn cuối của thai kỳ, phù ở chi dưới và giãn tĩnh mạch thường gặp; nguyên nhân chính là chèn ép tĩnh mạch chủ dưới do tử cung to lên.

Chẩn đoán mang thai

  • Xét nghiệm beta-hCG trong nước tiểu hoặc huyết thanh

Thông thường, xét nghiệm nước tiểu và đôi khi là xét nghiệm máu được sử dụng để xác nhận hoặc loại trừ khả năng mang thai; kết quả thường chính xác vài ngày trước khi chậm kinh và thường sớm nhất là vài ngày sau khi thụ thai.

Mang thai cũng có thể được xác nhận bằng các dấu hiệu khác, bao gồm:

  • Có túi thai trong tử cung, thường thấy trên siêu âm vào khoảng tuần thứ 4 đến tuần thứ 5 và thường tương ứng với nồng độ beta-hCG trong huyết thanh khoảng 1.500 mIU/mL (thường có thể thấy túi noãn hoàng trong túi thai vào tuần thứ 5)

  • Chuyển động tim thai nhi được hiển thị trên siêu âm sớm nhất là từ 5 tuần đến 6 tuần

  • Tiếng tim thai nhi, được nghe bằng thiết bị siêu âm Doppler cầm tay, sớm nhất là từ 8 tuần đến 10 tuần nếu tử cung có thể tiếp cận được ở bụng

  • Bác sĩ thấy các cử động của bào thai sau 20 tuần

Ngày dự sinh trong thai kỳ

Ngày dự sinh (EDD) được tính dựa trên kỳ kinh nguyệt cuối cùng (LMP). Một cách để tính ngày dự sinh là trừ 3 tháng khỏi ngày dự sinh và cộng thêm 7 ngày (quy tắc Naegele). Các phương pháp khác là: 

  • Ngày thụ thai + 266 ngày

  • Kỳ kinh cuối (LMP) + 280 ngày (40 tuần) đối với phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn kéo dài 28 ngày/chu kỳ

  • LMP + 280 ngày + (độ dài chu kỳ – 28 ngày) dành cho phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn kéo dài hơn 28 ngày

Sinh sớm hơn 3 tuần hoặc muộn hơn 2 tuần so với ngày dự kiến ​​vẫn được coi là bình thường. Sinh con trước khi thai được 37 tuần non tháng; sinh con sau 42 tuần tuổi thai sau sinh.

Khi chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, tiền sử kinh nguyệt là phương pháp tương đối đáng tin cậy để xác định ngày dự sinh. Khi thiếu thông tin khác, siêu âm ở ba tháng đầu của thai kỳ sẽ đưa ra ước tính chính xác nhất về tuổi thai. Khi không biết ngày thụ thai và chu kỳ kinh nguyệt không đều hoặc không có thông tin về chu kỳ kinh nguyệt, siêu âm có thể là nguồn duy nhất để xác định ngày dự sinh.

Nếu không chắc chắn về ngày kinh nguyệt, tuổi thai dựa trên kỳ kinh nguyệt cuối cùng và dựa trên siêu âm thai nhi đầu tiên trong thai kỳ hiện tại sẽ được so sánh. Nếu những ước tính về độ tuổi này không nhất quán, EDD (và do đó, tuổi thai ước tính) có thể thay đổi, tùy thuộc vào số tuần và mức độ không nhất quán. Hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) (xem Phương pháp ước tính ngày dự sinh) khuyến nghị sử dụng ngày này dựa trên các chỉ số đo trên siêu âm nếu ngày đó khác với ngày kinh nguyệt theo:

  • Khi được ≥ 8 6/7 tuần tuổi thai: > 5 ngày

  • Khi được 9 tuần đến 15 6/7 tuần tuổi thai: > 7 ngày

  • Khi được 16 tuần đến 21 6/7 tuần tuổi thai: > 10 ngày

  • Khi được 22 tuần đến 27 6/7 tuần tuổi thai: > 14 ngày

  • Khi được ≥ 28 tuần tuổi thai: > 21 ngày

Việc đối chiếu ngày kinh nguyệt và ngày siêu âm chỉ được thực hiện sau lần siêu âm đầu tiên trong thai kỳ hiện tại – EDD không thay đổi dựa trên các lần siêu âm tiếp theo. Bởi vì ước tính siêu âm kém chính xác hơn ở giai đoạn sau của thai kỳ, nên hiếm khi sử dụng kết quả siêu âm ở ba tháng thứ hai và ba tháng thứ ba của thai kỳ để thay đổi tuổi thai ước tính và nếu cân nhắc thay đổi ngày dự sinh thì nên tham khảo ý kiến của chuyên gia siêu âm thai nhi.

Xét nghiệm ở bệnh nhân sản khoa

thử nghiệm trong phòng thí nghiệm

Đánh giá trước khi sinh bao gồm xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, mẫu xét nghiệm ở cổ tử cung, siêu âm và đôi khi các xét nghiệm khác. Đánh giá ban đầu trong phòng thí nghiệm rất kỹ lưỡng; một số xét nghiệm được lặp lại trong các lần khám theo dõi (xem bảng Lịch trình đánh giá trước khi sinh thường quy).

Bảng
Bảng

Xét nghiệm thường quy đánh giá tình trạng thiếu máu, protein niệu và các bệnh truyền nhiễm có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi hoặc sức khỏe của bà mẹ. Protein niệu trước 20 tuần tuổi thai gợi ý bệnh thận. Protein niệu trước 20 tuần tuổi thai gợi ý tiền sản giật. Bệnh nhân có bất kỳ số lượng khuẩn lạc liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) nào trong nước tiểu ở bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ (điều này cho thấy tình trạng nhiễm khuẩn âm đạo-trực tràng nặng) nên được dùng kháng sinh dự phòng tại thời điểm sinh con (1).

Nhóm máu và kháng thể dị loại được kiểm tra vì phụ nữ có nhóm máu Rh âm tính có nguy cơ phát triển kháng thể Rh(D) (nếu trước đó đã tiếp xúc với nhóm máu Rh dương tính). Nếu người cha có nhóm máu Rh dương tính, thai nhi cũng có thể có nhóm máu Rh dương tính, và kháng thể chống Rh(D) của mẹ có thể đi qua nhau thai và gây ra bệnh tan máu ở thai nhi. Nồng độ kháng thể Rh(D) nên được đo ở phụ nữ mang thai trong lần trước sinh đầu tiên và ở những người có nhóm máu Rh âm tính, nên đo lại vào khoảng tuần thứ 28.

Nhìn chung, phụ nữ được sàng lọc bệnh tiểu đường thai kỳ theo thường quy từ tuần thứ 24 đến tuần thứ 28 bằng xét nghiệm dung nạp glucose đường uống. Tuy nhiên, nếu phụ nữ có các yếu tố nguy cơ đáng kể mắc bệnh tiểu đường típ 2 chưa được chẩn đoán, họ sẽ được sàng lọc trong ba tháng đầu của thai kỳ bằng xét nghiệm glucose huyết thanh ngẫu nhiên hoặc lúc đói và HbA1C. Các yếu tố nguy cơ này bao gồm sự kết hợp của béo phì và một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ sau đây (2):

  • Không hoạt động thể chất

  • Người thân cùng huyết thống cấp một mắc bệnh tiểu đường

  • Chủng tộc hoặc dân tộc liên quan đến nguy cơ gia tăng (ví dụ: người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc La tinh, người Mỹ bản địa, người Mỹ gốc Á, người dân đảo Thái Bình Dương)

  • Đái tháo đường thai kỳ hoặc trẻ sơ sinh to bất thường (cân nặng ≥ 4.000 g) trong lần mang thai trước

  • Tăng huyết áp (140/90 mmHg hoặc đang điều trị tăng huyết áp)

  • Nồng độ cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao < 35 mg/dL (0,90 mmol/L) hoặc nồng độ triglyceride > 250 mg/dL (2,82 mmol/L)

  • Hội chứng buồng trứng đa nang

  • HbA1C ≥ 5,7%, rối loạn dung nạp đường huyết hoặc rối loạn đường huyết lúc đói trong lần xét nghiệm trước

  • Các tình trạng lâm sàng khác liên quan đến tình trạng kháng insulin (ví dụ: chỉ số khối cơ thể trước khi mang thai lớn hơn 40 kg/m2, bệnh gai đen)

  • Tiền sử bệnh tim mạch

Nếu xét nghiệm trong ba tháng đầu của thai kỳ bình thường, bệnh nhân sẽ được sàng lọc bệnh tiểu đường thai kỳ vào tuần thứ 24 đến tuần thứ 28.

Nếu một trong hai người cha/mẹ có khả năng có bất thường về di truyền đã biết hoặc nghi ngờ, cặp vợ chồng đó cần phải được giới thiệu để được tư vấn và xét nghiệm di truyền. Bệnh nhân mang thai cũng nên được tư vấn về các lựa chọn sàng lọc không xâm lấn hoặc xét nghiệm chẩn đoán tình trạng lệch bội lẻ ở thai nhi. Học viện Sản phụ khoa Hoa Kỳ khuyến nghị rằng tất cả phụ nữ nên được cung cấp xét nghiệm chẩn đoán, bất kể nguy cơ ở lần khám ban đầu hoặc tuổi của mẹ, bao gồm xét nghiệm trước sinh không xâm lấn (NIPT) hoặc xét nghiệm DNA không có tế bào (3).

Xét nghiệm máu để sàng lọc hoặc theo dõi các bệnh tuyến giáp (đo hormone kích thích tuyến giáp [TSH]) được thực hiện ở những phụ nữ có một hoặc nhiều tình trạng sau (4):

  • Các triệu chứng hoặc lý do khác gây nghi ngờ lâm sàng về bệnh

  • Bệnh tuyến giáp hoặc tiền sử gia đình mắc bệnh tuyến giáp

  • Đái tháo đường loại 1

Đánh giá các bệnh lý khác (ví dụ: nồng độ chì, bệnh sởi, viêm âm đạo do vi khuẩn, nhiễm vi-rút Zika, bệnh Chagas và các bệnh khác) được thực hiện tùy thuộc vào bệnh sử, các yếu tố nguy cơ, triệu chứng và tình trạng tiếp xúc gần đây.

Siêu âm

Hầu hết các bác sĩ sản khoa đều khuyên nên siêu âm ít nhất một lần trong mỗi lần mang thai, lý tưởng nhất là từ tuần thứ 16 đến tuần thứ 20. Có thể thực hiện siêu âm sớm hơn nếu không chắc chắn về ngày dự sinh (EDD) hoặc nếu bệnh nhân có triệu chứng (ví dụ: ra máu âm đạo, đau vùng chậu).

Chỉ định cụ thể cho việc siêu âm bao gồm:

  • Phát hiện đa thai, chửa trứng, thai ngoài tử cung

  • Nghiên cứu các bất thường của thai nhi (ví dụ: các kết quả bất thường của các xét nghiệm sàng lọc không xâm lấn của mẹ hoặc kích thước tử cung không phù hợp với tuổi thai ước tính cho thấy tình trạng đó)

  • Đo độ mờ da gáy như một thành phần của xét nghiệm sàng lọc lệch bội lẻ không xâm lấn

  • Đánh giá chi tiết về giải phẫu thai nhi (thường vào khoảng tuần thứ 16 đến tuần thứ 20)

  • Có thể siêu âm tim thai nhi ở tuần thứ 20 nếu nguy cơ mắc dị tật tim bẩm sinh cao (ví dụ: ở những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường típ 1 hoặc đã sinh con bị dị tật tim bẩm sinh)

  • Xác định vị trí rau thai, đa ối hoặc thiểu ối

  • Xác định vị trí và kích thước của thai nhi

Siêu âm cũng được sử dụng để hướng dẫn kim trong quá trình lấy mẫu nhung mao màng đệm, chọc ối và truyền máu cho thai nhi.

Nếu cần siêu âm trong ba tháng đầu của thai kỳ (ví dụ: để đánh giá đau, ra máu hoặc khả năng sống của thai kỳ), việc sử dụng đầu dò âm đạo sẽ tối đa hóa độ chính xác của chẩn đoán; bằng chứng về thai kỳ trong tử cung (túi thai hoặc cực thai nhi) có thể được nhìn thấy sớm nhất là từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 5 và được nhìn thấy ở tuần thứ 7 đến tuần thứ 8 ở > 95% số trường hợp. Chuyển động của thai nhi và chuyển động tim có thể được quan sát trực tiếp trên siêu âm sớm nhất là từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 6.

Hình ảnh khác

Không nên hoãn việc chụp X-quang hoặc các chẩn đoán hình ảnh khác cần thiết về mặt y khoa vì lý do mang thai. Tuy nhiên, chụp X-quang bụng theo yêu cầu sẽ được hoãn lại cho đến sau khi mang thai.

Nguy cơ thai nhi tiếp xúc với bức xạ ion hóa từ các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh phụ thuộc vào tuổi thai và liều lượng bức xạ. Các tác dụng và ngưỡng liều cho các độ tuổi thai khác nhau bao gồm (5):

  • 2 tuần đến 3 tuần (từ khi thụ tinh đến khi cấy ghép): Thai chết hoặc không có tác dụng (50 đến 100 milligray [mGy])

  • 4 tuần đến 10 tuần (trong quá trình hình thành cơ quan): Dị tật bẩm sinh (200 mGy); hạn chế tăng trưởng (200 đến 250 mGy)

  • 8 tuần đến 15 tuần: Nguy cơ cao mắc khuyết tật trí tuệ nặng (60 đến 310 mGy); tật đầu nhỏ (200 mGy)

  • 16 tuần đến 25 tuần: Nguy cơ thấp mắc khuyết tật trí tuệ nặng (250 đến 280 mGy)

Các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh có thể được phân loại theo liều lượng bức xạ tới thai nhi (5):

  • Liều rất thấp (< 0,1 mGy): Chụp X-quang hoặc CT đầu và cổ hoặc tứ chi; chụp X-quang ngực

  • Liều thấp đến trung bình (0,1 đến 10 mGy): Chụp X-quang bụng hoặc cột sống; chụp bể thận tĩnh mạch; thụt bari cản quang kép; chụp CT ngực; chụp y học hạt nhân (ví dụ: chụp cắt lớp liều thấp hoặc chụp mạch)

  • Liều cao hơn (10 đến 50 mGy): Chụp CT bụng hoặc vùng chậu

Do đó, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên được hỏi về khả năng mang thai hiện tại (và nên thử thai nếu cần thiết) trước khi chụp X-quang hoặc chụp CT. Chụp CT bụng hoặc vùng chậu đôi khi được sử dụng trong thai kỳ nếu đây là phương thức chẩn đoán hình ảnh tiêu chuẩn và hiệu quả nhất cho một chỉ định chẩn đoán cụ thể. Trong trường hợp này, bệnh nhân cần được tư vấn về các nguy cơ và lợi ích và phải có được chấp thuận tham gia nghiên cứu.

Chụp MRI không phát ra bức xạ và có thể được sử dụng trong suốt thai kỳ mà không cần lo ngại về những nguy cơ liên quan đến thai kỳ.

Ngoài ra, chất cản quang thường được sử dụng để tăng cường phương thức chẩn đoán hình ảnh. Thuốc cản quang dùng trong chụp CT không liên quan đến tác dụng gây quái thai. Ngược lại, thuốc cản quang có gadolinium thường được sử dụng để chụp MRI còn gây tranh cãi dựa trên dữ liệu mô hình động vật cho thấy khả năng gây quái thai, nhưng điều này chưa được xác nhận ở người. Do đó, việc sử dụng thuốc cản quang trong chụp MRI được dành riêng cho những tình huống cụ thể mà việc xử trí trên lâm sàng có thể thay đổi hoặc tình trạng bệnh được coi là đe dọa đến tính mạng của người mang thai (5).

Tài liệu tham khảo về xét nghiệm

  1. 1.  American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG): Prevention of Group B Streptococcal Early-Onset Disease in Newborns: ACOG Committee Opinion, Number 797 [published correction appears in Obstet Gynecol. Tháng 4 năm 2020;135(4):978-979]. Obstet Gynecol. 2020;135(2):e51-e72. doi:10.1097/AOG.0000000000003668

  2. 2. ACOG Committee on Practice Bulletins: ACOG Practice Bulletin No. 190: Gestational Diabetes Mellitus. Obstet Gynecol. 2018;131(2):e49-e64. doi:10.1097/AOG.0000000000002501

  3. 3. ACOG Committee on Practice Bulletins—Obstetrics; Committee on Genetics; Society for Maternal-Fetal Medicine: Screening for Fetal Chromosomal Abnormalities: ACOG Practice Bulletin, Number 226. Obstet Gynecol. 2020;136(4):e48-e69. doi:10.1097/AOG.0000000000004084

  4. 4. ACOG Committee on Practice Bulletins—Obstetrics: Thyroid Disease in Pregnancy: ACOG Practice Bulletin, Number 223. Obstet Gynecol. 2020;135(6):e261-e274. doi:10.1097/AOG.0000000000003893

  5. 5. ACOG Committee on Obstetric Practice: Opinion No. 723: Guidelines for Diagnostic Imaging During Pregnancy and Lactation [published correction appears in Obstet Gynecol. Tháng 9 năm 2018; 132(3):786. doi: 10.1097/AOG.0000000000002858]. Obstet Gynecol. 2017 (khẳng định lại năm 2021);130(4):e210-e216. doi:10.1097/AOG.0000000000002355

Xử trí bệnh nhân sản khoa

Các bệnh lý của mẹ có từ trước hoặc các yếu tố nguy cơ gây biến chứng sản khoa hoặc các vấn đề của mẹ hoặc thai nhi trong thời kỳ mang thai sẽ được xử lý phù hợp. Chăm sóc trước khi sinh còn bao gồm tư vấn về tăng cường sức khỏe và hướng dẫn dự đoán để chuẩn bị cho bệnh nhân chuyển dạ, sinh nở và chăm sóc trẻ sơ sinh. Các cặp vợ chồng được khuyến khích tham dự các lớp học sinh nở.

Thai kỳ có nguy cơ cao cần được theo dõi chặt chẽ, chăm sóc chuyên khoa và đội ngũ y tế đa chuyên khoa, đôi khi phải chuyển đến trung tâm chăm sóc tiền sản. Các trung tâm chăm sóc tiền sản cung cấp nhiều dịch vụ chuyên khoa và bán chuyên khoa do các bác sĩ chuyên khoa sản, thai nhi và trẻ sơ sinh đảm nhiệm. Theo dõi chặt chẽ trong suốt thai kỳ có thể liên quan đến việc kiểm soát các bệnh mạn tính và tăng tần suất khám thai, xét nghiệm máu, siêu âm và các loại theo dõi thai nhi khác. Giao tiếp với phụ nữ mang thai và gia đình cô ấy là điều cần thiết để đưa bệnh nhân vào quá trình ra quyết định chung, phát triển kế hoạch chăm sóc và hỗ trợ tinh thần.

Các triệu chứng cần đánh giá

Bệnh nhân được tư vấn về những thay đổi bình thường trong thai kỳ, cảm giác, cử động của thai nhi, chế độ ăn uống, tăng cân, sức khỏe tâm thần, các biện pháp phòng ngừa được khuyến nghị và cách tăng cường sức khỏe. Họ cũng được tư vấn về các triệu chứng đáng lo ngại mà họ nên liên hệ với bác sĩ sản khoa, bao gồm ra máu âm đạo, co thắt tử cung liên tục, rò rỉ dịch, sốt, tiểu khó, tiểu nhiều lần, tiểu gấp, giảm cử động của thai nhi, đau dai dẳng dữ dội (đau đầu, đau vùng chậu, bụng, lưng, bắp chân), ngất xỉu hoặc chóng mặt, khó thở, phù mặt, phù tay hoặc phù không đối xứng ở bắp chân và thay đổi thị lực.

Những phụ nữ đẻ nhiều lần với tiền sử chuyển dạ nhanh nên thông báo ngay cho bác sĩ khi có triệu chứng đầu tiên của chuyển dạ.

Chế độ ăn uống và chất bổ sung

Để cung cấp dinh dưỡng cho thai nhi, lượng calo bổ sung trung bình mà bệnh nhân mang thai bắt đầu mang thai với chỉ số khối cơ thể (BMI) trong phạm vi bình thường cần thay đổi tùy theo ba thàng của thai kỳ: ba tháng đầu của thai kỳ, không cần bổ sung calo; ba tháng thứ hai của thai kỳ, cần thêm khoảng 340 kcal mỗi ngày; ba tháng thứ ba của thai kỳ, cần thêm khoảng 450 kcal mỗi ngày. Xem Ăn uống tốt cho sức khỏe khi mang thai: Mẹo nhanh . Hầu hết lượng calo nên đến từ protein. Nếu tăng trọng của người mẹ là quá mức (> 1,4 kg/tháng trong những tháng đầu) hoặc không đầy đủ (< 0,9 kg/tháng), chế độ ăn phải được thay đổi thêm.

Để phòng ngừa, tất cả phụ nữ mang thai và phụ nữ đang có kế hoạch hoặc có thể mang thai nên bổ sung axit folic (folate), từ 0,4 đến 0,8 mg uống một lần mỗi ngày (1). Phụ nữ đã sinh con bị tật nứt đốt sống nên uống 4 mg một lần mỗi ngày, bắt đầu từ 3 tháng trước khi thụ thai và tiếp tục trong suốt 12 tuần thai kỳ (2).

Hầu hết các loại vitamin dành cho bà bầu đều chứa lượng sắt (II) được khuyến nghị bổ sung hàng ngày trong thời kỳ mang thai (27 mg) (3). Ở những bệnh nhân bị thiếu máu do thiếu sắt, cần dùng liều cao hơn (ví dụ: 325 mg sắt sulfat [65 mg sắt nguyên tố]). Sắt thường được dùng hàng ngày nhưng có thể dùng cách ngày nếu bệnh nhân bị các vấn đề khó chịu về đường tiêu hóa, đặc biệt là táo bón.

Bệnh nhân mang thai cũng nên được tư vấn về các biện pháp chế biến thực phẩm an toàn, bao gồm tránh một số loại hải sản có hàm lượng thủy ngân cao và thực phẩm có nguy cơ nhiễm vi khuẩn Listeria, cao, chẳng hạn như:

  • Cá, động vật có vỏ, thịt, gia cầm hoặc trứng sống hoặc tái

  • Nước trái cây, sữa hoặc phô mai chưa tiệt trùng

  • Thịt nguội hoặc thịt nguội, hải sản hun khói và xúc xích (trừ khi được hâm nóng đến nhiệt độ bốc hơi)

  • Các loại salad thịt chế biến sẵn hoặc hải sản như salad giăm bông, salad gà hoặc salad cá ngừ

  • Rau mầm sống, bao gồm cỏ linh lăng, cỏ ba lá, củ cải và giá đỗ xanh

Tăng cân

Thai phụ được tư vấn về tập thể dục và chế độ ăn kiêng và được khuyên nên theo hướng dẫn của Viện Y học về tăng cân, dựa trên chỉ số khối cơ thể trước khi mang thai (BMI – xem bảng Hướng dẫn theo dõi tăng cân khi mang thai). Chế độ ăn kiêng giảm cân trong thời kỳ mang thai không được khuyến nghị, ngay cả với những phụ nữ bị béo phì nặng.

Bảng
Bảng
Công cụ tính toán lâm sàng

Hoạt động thể chất

Tập thể dục trong thời kỳ mang thai có nguy cơ không đáng kể và đã được chứng minh là có lợi cho hầu hết phụ nữ mang thai, bao gồm duy trì hoặc cải thiện thể lực, kiểm soát tăng cân khi mang thai, giảm đau lưng dưới và có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ hoặc tiền sản giật. (4). Tập thể dục mức độ vừa phải không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra bất kỳ kết quả bất lợi nào cho thai kỳ; tuy nhiên, phụ nữ mang thai có thể có nhiều nguy cơ bị chấn thương khớp, ngã và chấn thương bụng. Chấn thương bụng có thể dẫn đến bong nhau thai, gây ra bệnh tật hoặc tử vong cho thai nhi.

Quan hệ tình dục có thể được tiếp tục trong suốt thai kỳ trừ khi xảy ra ra máu âm đạo, đau vùng chậu hoặc âm đạo, khí hư âm đạo, rò rỉ nước ối hoặc co thắt tử cung.

Thuốc men, sử dụng chất gây nghiện và phơi nhiễm chất độc

Các bác sĩ lâm sàng nên xem xét thuốc và thực phẩm bổ sung dinh dưỡng của bệnh nhân để giải quyết vấn đề an toàn thuốc trong thai kỳ và xác định xem có cần ngừng, điều chỉnh hoặc thay đổi loại thuốc hoặc thực phẩm bổ sung nào không.

Dùng caffeine với lượng nhỏ (ví dụ: 1 tách cà phê mỗi ngày) dường như ít hoặc không gây nguy cơ cho thai nhi.

Bệnh nhân mang thai không nên sử dụng rượu, thuốc lá (và nên tránh tiếp xúc với khói thuốc lá), cần sa hoặc ma túy bất hợp pháp. Bệnh nhân mắc chứng rối loạn sử dụng chất gây nghiện nên được một nhóm đa chuyên khoa có chuyên môn phù hợp xử trí, bao gồm bác sĩ sản khoa, bác sĩ chuyên khoa cai nghiện và bác sĩ nhi khoa.

Bệnh nhân mang thai cũng nên tránh những điều sau:

  • Tiếp xúc trực tiếp với chất độn chuồng mèo (do nguy cơ mắc bệnh do toxoplasma)

  • Nhiệt độ cao kéo dài (ví dụ như trong bồn nước nóng hoặc phòng xông hơi)

  • Tiếp xúc với những người bị nhiễm vi rút đang hoạt động (ví dụ: rubella, ban đỏ nhiễm khuẩn [bệnh thứ năm], thủy đậu).

Tiếp xúc với các tác nhân độc hại trong môi trường trong thời kỳ mang thai có liên quan đến các kết quả bất lợi về sức khỏe sinh sản và phát triển, bao gồm vô sinh, sảy thai, sinh non, trẻ nhẹ cân khi sinh, chậm phát triển thần kinh và ung thư ở trẻ em (5). Nguy cơ có kết quả bất lợi phụ thuộc vào độc tố và mức độ tiếp xúc. Bác sĩ sản khoa nên đưa các câu hỏi về sức khỏe môi trường vào bệnh sử.

Bệnh nhân cần được khuyên tránh hoặc giảm thiểu tiếp xúc với các tác nhân cụ thể như chì, thuốc trừ sâu, dung môi và phthalate. Các sản phẩm chăm sóc cá nhân sử dụng trong thời kỳ mang thai không được chứa phthalate, paraben, oxybenzone hoặc triclosan. Các sản phẩm mỹ phẩm và chăm sóc cá nhân được dán nhãn "không chứa hương liệu" ít có khả năng chứa độc tố hơn các sản phẩm được dán nhãn "không mùi". 

Tiêm chủng

Vắc-xin trong thời kỳ mang thai có hiệu quả như nhau đối với phụ nữ mang thai và không mang thai.

Vắc xin vi rút sống, chẳng hạn như vắc xin rubella hoặc thủy đậu, không nên sử dụng trong thời kỳ mang thai.

Các loại vắc xin sau đây được khuyến nghị cho tất cả hoặc một số phụ nữ mang thai được Viện Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến nghị (xem ACOG: Tiêm chủng cho bà mẹ):

Vắc-xin khác nên được dành riêng cho những trường hợp mà phụ nữ hoặc thai nhi có nguy cơ đáng kể tiếp xúc với bệnh nhiễm trùng nguy hiểm và/hoặc có nguy cơ biến chứng cao hơn và nguy cơ bị tác dụng bất lợi từ vắc-xin là thấp. Tiêm phòng phế cầu được khuyến nghị cho những bệnh nhân mang thai có nguy cơ mắc bệnh phế cầu khuẩn nặng. Có thể tiêm vắc xin phòng bệnh tả, viêm gan A, viêm gan B, sởi, quai bị, dịch hạch, bại liệt, bệnh dại, thương hànsốt vàng trong thời kỳ mang thai nếu có nguy cơ nhiễm bệnh là đáng kể.

Phòng ngừa các biến chứng chu sinh

Đối với bệnh nhân mang thai có nhóm máu Rh âm tính, globulin miễn dịch Rho(D) được dùng để ngăn ngừa phản ứng miễn dịch dị chủng, có thể dẫn đến bệnh tan máu ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Globulin miễn dịch Rho(D) được tiêm vào tuần thứ 28, trước bất kỳ đợt hoặc thủ thuật nào có thể gây xuất huyết cho thai nhi và mẹ, và sau khi sinh.

Đối với bệnh nhân mang thai có nguy cơ cao bị tiền sản giật, nên dùng aspirin liều thấp (81 mg/ngày) để phòng ngừa. Aspirin được bắt đầu dùng từ tuần thứ 12 đến tuần thứ 28 của thai kỳ (lý tưởng nhất là trước tuần thứ 16) và tiếp tục cho đến khi sinh.

Các vấn đề tâm lý xã hội

Sàng lọc trầm cảmlo lắng nên được thực hiện trong lần khám trước khi sinh đầu tiên và lặp lại trong ba háng thứ ba của thai kỳ và sau khi sinh. Việc sàng lọc cũng nên được thực hiện để phát hiện tình trạng bạo lực của người phối ngẫu.

Bệnh nhân cần được hỏi về những rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc hoặc cần được hỗ trợ hoặc điều chỉnh (ví dụ: khuyết tật về thể chất hoặc nhận thức, rào cản ngôn ngữ, vấn đề cá nhân, gia đình, xã hội, tôn giáo hoặc tài chính). Bác sĩ lâm sàng nên cung cấp thông tin và giúp bệnh nhân tiếp cận các nguồn lực sẵn có.

Du lịch

Không có chống chỉ định tuyệt đối nào đối với việc đi du lịch vào bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ. Phụ nữ mang thai nên đeo dây an toàn bất kể tuổi thai và loại xe.

Hầu hết các hãng hàng không đều cho phép đi máy bay cho đến tuần thứ 36 của thai kỳ, vì có nguy cơ chuyển dạ và sinh con trong khi bay.

Trong bất kỳ loại đi du lịch nào, phụ nữ mang thai nên kéo căng và làm thẳng chân và mắt cá theo định kỳ để ngăn ngừa ứ máu tĩnh mạch chi và dẫn đến khả năng huyết khối. Ví dụ, trên các chuyến bay dài, họ nên đi bộ hoặc co duỗi cách từ 2 đến 3 giờ một lần. Trong một số trường hợp, bác sĩ lâm sàng có thể đề nghị dùng thuốc dự phòng huyết khối khi đi du lịch dài ngày.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. US Preventive Services Task Force, Barry MJ, Nicholson WK, et al: Folic Acid Supplementation to Prevent Neural Tube Defects: US Preventive Services Task Force Reaffirmation Recommendation Statement. JAMA. 2023; 330(5):454-459. doi:10.1001/jama.2023.12876

  2. 2. American College of Obstetricians and Gynecologists' Committee on Practice Bulletins: Practice Bulletin, Number 187, Neural Tube Defects. Obstet Gynecol. 2017 (reaffirmed 2021);130(6):e279-e290. doi:10.1097/AOG.0000000000002412

  3. 3. American College of Obstetricians and Gynecologists' Committee on Practice Bulletins: Practice Bulletin, Number 233, Anemia in Pregnancy. Obstet Gynecol. 2021;138(2):e55-e64. doi:10.1097/AOG.0000000000004477

  4. 4. Syed H, Slayman T, Thoma KD: ACOG Committee Opinion No. 804: Physical activity and exercise during pregnancy and the postpartum period. 2020. PMID: 33481513. doi: 10.1097/AOG.0000000000004266

  5. 5. ACOG Committee on Obstetric Practice: Reducing Prenatal Exposure to Toxic Environmental Agents: ACOG Committee Opinion, Number 832. Obstet Gynecol. 2021;138(1):e40-e54. doi:10.1097/AOG.0000000000004449

  6. 6. Committee Opinion No. 718: Update on Immunization and Pregnancy: Tetanus, Diphtheria, and Pertussis Vaccination. Obstet Gynecol. 2017;130(3):e153-e157. doi:10.1097/AOG.0000000000002301