Mất trí nhớ

TheoMark Freedman, MD, MSc, University of Ottawa
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 10 2023

Mất trí nhớ là một triệu chứng phổ biến trong các cơ sở chăm sóc ban đầu. Tình trạng này đặc biệt phổ biến ở người cao tuổi nhưng cũng có thể gặp ở những người trẻ tuổi. Đôi khi các thành viên trong gia đình chứ không phải bệnh nhân báo cáo tình trạng mất trí nhớ (thường xảy ra ở người cao tuổi, thường là người bị sa sút trí tuệ).

Thầy thuốc lâm sàng và bệnh nhân thường lo ngại rằng, mất trí nhớ là dấu hiệu báo trước của sa sút trí tuệ. Mối quan ngại này dựa trên kiến thức chung cho rằng, dấu hiệu đầu tiên của sa sút trí tuệ thường là mất trí nhớ. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp mất trí nhớ không đại diện cho sự khởi phát của sa sút trí tuệ.

Các triệu chứng phổ biến nhất và sớm nhất của mất trí nhớ thường bao gồm

  • Khó nhớ tên và chỗ để chìa khóa xe, hoặc các vật dụng thông thường khác

Khi mất trí nhớ nặng hơn, người ta có thể không nhớ thanh toán hóa đơn hoặc giữ đúng hẹn. Những người bị mất trí nhớ trầm trọng có thể gặp nhiều tình huống nguy hiểm, chẳng hạn như quên tắt bếp lò, quên khóa cửa khi rời khỏi nhà, hoặc quên để mắt tới trẻ nhỏ hoặc trẻ sơ sinh họ phải trông. Các triệu chứng khác (như trầm cảm, lú lẫn, thay đổi nhân cách, khó khăn trong các hoạt động hàng ngày) có thể xuất hiện tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra mất trí nhớ.

Căn nguyên của mất trí nhớ

Nguyên nhân phổ biến nhấtgây mất trí nhớ (xem bảng Đặc điểm của các nguyên nhân phổ biến gây mất trí nhớ) là

  • Sự suy giảm trí nhớ liên quan đến tuổi (phổ biến nhất)

  • Suy giảm nhận thức nhẹ

  • Sa sút trí tuệ

  • Trầm cảm

Sự suy giảm trí nhớ liên quan tuổi đề cập đến tình trạng giảm trí nhớ xảy ra khi lão hóa. Ở những người có tình trạng này, phải mất thời gian lâu hơn để tạo ra những ký ức mới (ví dụ như tên của một người hàng xóm mới, mật khẩu máy tính mới), để tìm hiểu các thông tin phức tạp và thao tác mới (quy trình làm việc, phần mềm máy tính). Sự suy giảm trí nhớ liên quan tuổi đôi khi dẫn đến tình trạng quên (ví dụ nhầm chìa khóa xe hơi) hoặc các tình huống khó xử. Tuy nhiên, nhận thức và khả năng thực hiện hầu hết các hoạt động sinh hoạt hàng ngày không bị suy giảm. Khi có đủ thời gian, bệnh nhân vẫn có thể tư duy và trả lời các câu hỏi, điều này cho thấy bộ nhớ và các chức năng nhận thức vẫn còn nguyên vẹn.

Bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ bị mất trí nhớ thực sự, chứ không phải đôi khi hồi phục kí ức chậm từ bộ lưu trữ trí nhớ còn được duy trì tương đối như ở những người cùng độ tuổi. Suy giảm nhận thức nhẹ có xu hướng ảnh hưởng đầu tiên đến trí nhớ ngắn hạn (còn gọi là trí nhớ sự kiện hoặc hồi đoạn). Bệnh nhân gặp khó khăn trong việc ghi nhớ các cuộc hội thoại mới, vị trí của các vật dụng thông thường và các cuộc hẹn. Tuy nhiên, trí nhớ cho các sự kiện xa, cũng như sự chú ý (còn gọi là trí nhớ làm việc - bệnh nhân có thể nhắc lại danh sách các mục và tính toán đơn giản) thường không thay đổi. Định nghĩa suy giảm nhận thức nhẹ đang dần thay đổi, Hiện nay, suy giảm nhận thức nhẹ đôi khi được định nghĩa là suy giảm trí nhớ và/hoặc các chức năng nhận thức khác, nhưng các rối loạn này không đủ nặng để ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày. Có tới 50% số bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ sẽ bị sa sút trí tuệ trong vòng 3 năm (1).

Bệnh nhân sa sút trí tuệ có mất trí nhớ kèm theo các bằng chứng về rối loạn nhận thức và hành vi. Ví dụ, họ có thể gặp khó khăn trong việc tìm từ và/hoặc gọi tên đồ vật (mất ngôn ngữ), thực hiện các hoạt động vận động đã học trước đó (mất dùng động tác) hoặc lập kế hoạch và tổ chức các công việc hàng ngày, chẳng hạn như bữa ăn, mua sắm và thanh toán hóa đơn (chức năng điều hành bị suy giảm). Tính cách của họ có thể thay đổi; ví dụ, họ có thể trở nên cáu kỉnh, lo lắng, kích động, và/hoặc không linh hoạt.

Trầm cảm là tình trạng phổ biến ở bệnh nhân sa sút trí tuệ. Tuy nhiên, bản thân trầm cảm có thể gây mất trí nhớ, tạo nên bệnh cảnh giống sa sút trí tuệ (giả sa sút trí tuệ). Những bệnh nhân này thường có những triệu chứng khác của trầm cảm.

Mê sảng là một trạng thái lú lẫn cấp tính, có thể do nhiễm trùng nặng, do thuốc (tác dụng bất lợi) hoặc thuốc phiện, hoặc do cai thuốc hoặc cai thuốc phiện. Các bệnh nhân bị mê sảng có suy giảm trí nhớ, nhưng biểu hiện chính thường là những thay đổi toàn bộ trạng thái tinh thần mức độ nặng và rối loạn nhận thức, chứ không phải mất trí nhớ.

Bảng
Bảng

Nguyên nhân ít phổ biến hơn của mất trí nhớ có thể hồi phục khi điều trị bao gồm:

Các rối loạn khác có thể được khắc phục, tùy thuộc vào phạm vi và mức độ tổn thương mô. Chúng bao gồm

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

  1. 1. Roberts RO, Knopman DS, Mielke MM, et al: Higher risk of progression to dementia in mild cognitive impairment cases who revert to normal. Neurology 82 (4):317–325, 2014 doi: 10.1212/WNL.0000000000000055 Xuất bản điện tử ngày 18 tháng 12 năm 2013.

Đánh giá mất trí nhớ

Ưu tiên cao nhất khi đánh giá mất trí nhớ là

  • Để xác định các nguyên nhân có thể khắc phục được, bao gồm trầm cảm, lo âu và mê sảng, cần điều trị nhanh chóng

Khi đó, việc đánh giá tập trung vào phân biệt vài trường hợp suy giảm nhận thức nhẹ và sa sút trí tuệ giai đoạn sớm với số lượng lớn hơn các trường hợp có suy giảm trí nhớ liên quan đến tuổi tác hoặc quên thông thường.

Đánh giá đầy đủ về sa sút trí tuệ thường đòi hỏi thời gian lâu hơn 20 đến 30 phút, khoảng thời gian dành cho một lần khám thông thường. Cũng có thể cần đánh giá của một nhà tâm lý học thần kinh.

Lịch sử

Nếu được, nên khai thác bệnh sử riêng rẽ từ bệnh nhân và các thành viên gia đình. Các bệnh nhân suy giảm nhận thức không có khả năng cung cấp bệnh sử chi tiết, chính xác, và các thành viên trong gia đình có thể không cảm thấy thoải mái khi kể bệnh sử một cách trung thực lúc có mặt bệnh nhân.

Bệnh sử nên mô tả các loại mất trí nhớ cụ thể (ví dụ như quên từ hoặc tên, bị lạc), khởi phát, mức độ và tiến triển của triệu chứng. Các bác sĩ lâm sàng nên xác định mức độ ảnh hưởng của các triệu chứng đến hoạt động hàng ngày tại nơi làm việc và ở nhà. Những triệu chứng quan trọng bao gồm các thay đổi trong việc sử dụng ngôn ngữ, ăn uống, nghỉ ngơi, và tâm trạng. Các bác sĩ lâm sàng cũng nên đánh giá khả năng điều khiển phương tiện cơ giới của bệnh nhân vì một số khu vực pháp lý yêu cầu bác sĩ lâm sàng báo cáo những bệnh nhân bị suy giảm khả năng lái xe cho cơ quan cấp phép địa phương.

Đánh giá toàn diện nhằm xác định các triệu chứng thần kinh và các yếu tố khác gợi ý một thể sa sút trí tuệ cụ thể, bao gồm:

Tiền sử bệnh trước đây nên bao gồm các bệnh lý đã biết và tiền sử sử dụng thuốc theo đơn, thuốc không kê đơn và thuốc phiện bất hợp pháp.

Tiền sử gia đình và xã hội nên bao gồm năng lực trí tuệ, học vấn, việc làm và chức năng xã hội của bệnh nhân. Cần lưu ý tình trạng lạm dụng chất gây nghiện hiện tại và trong quá khứ. Cần hỏi tiền sử gia đình về chứng sa sút trí tuệ hoặc suy giảm nhận thức nhẹ xuất hiện sớm. Tiền sử xã hội cũng nên bao gồm các thói quen ăn uống bất thường.

Khám thực thể

Ngoài khám tổng quát, cần khám thần kinh đầy đủ và khảo sát chi tiết trạng thái tinh thần.

Việc khảo sát trạng thái tinh thần, thông qua yêu cầu bệnh nhân thực hiện một số nhiệm vụ nhất định, sẽ giúp đánh giá các yếu tố sau đây:

  • Định hướng (nêu tên, ngày, và địa điểm hiện tại)

  • Chú ý và tập trung (ví dụ, nhắc lại một danh sách các từ, tính toán đơn giản, đánh vần ngược từ "world")

  • Trí nhớ ngắn hạn (ví dụ Nhắc lại danh sách 3 hoặc 4 mục sau 5, 10, và 30 phút)

  • Trí nhớ dài hạn (ví dụ, trả lời các câu hỏi về quá khứ xa)

  • Ngôn ngữ (ví dụ, gọi tên một số đồ vật thông thường)

  • Khả năng sử dụng động tác và chức năng điều hành (ví dụ, làm theo một lệnh có nhiều giai đoạn)

  • Thực dụng xây dựng (ví dụ, sao chép một hình vẽ hoặc vẽ một mặt đồng hồ)

  • Đọc sách

  • Tính toán

Có thể sử dụng nhiều thang đo khác nhau để sàng lọc sự suy yếu ở các thành phần này. Một cách phổ biến để sàng lọc là Đánh giá nhận thức Montreal (1) hoặc Kiểm tra tình trạng tâm thần tối thiểu Folstein (2). Các kiểm tra này thường cần không đến 10 phút để thực hiện.

Các dấu hiệu cảnh báo

Ở những bệnh nhân bị mất trí nhớ, những dấu hiệu sau đây được đặc biệt quan tâm:

  • Suy giảm chức năng trong sinh hoạt hàng ngày

  • Mất chú ý hoặc thay đổi tri giác

  • Triệu chứng trầm cảm (ví dụ như, ăn mất ngon, chậm chạp tâm thần vận động, ý tưởng tự sát)

  • Tốc độ khởi phát triệu chứng

Mất trí nhớ phát triển nhanh chóng có thể là dấu hiệu của một chứng rối loạn như là bệnh Creutzfeldt-Jakob hoặc khối u não

Giải thích các dấu hiệu

Sự hiện diện của mất trí nhớ thực sự, suy giảm chức năng trong sinh hoạt hàng ngày, và các chức năng nhận thức khác là các yếu tố giúp phân biệt giữa sự thay đổi trí nhớ liên quan đến tuổi tác với suy giảm nhận thức nhẹ và sa sút trí tuệ.

Rối loạn khí sắc xuất hiện ở các bệnh nhân trầm cảm nhưng cũng phổ biến ở những bệnh nhân sa sút trí tuệ hoặc suy giảm nhận thức nhẹ. Do đó, việc phân biệt trầm cảm với sa sút trí tuệ có thể khó khăn cho đến khi tình trạng mất trí nhớ trở nên nặng hơn hoặc trừ khi có các dấu hiệu thần kinh khác (ví dụ: mất ngôn ngữ, mất nhận thức, mất dùng động tác).

Mất tập trung giúp phân biệt mê sảng với sa sút trí tuệ giai đoạn đầu. Ở hầu hết các bệnh nhân bị mê sảng, mất trí nhớ thường không biểu hiện. Tuy nhiên, cần loại trừ mê sảng trước khi chẩn đoán xác định sa sút trí tuệ.

Cách thức bệnh nhân tìm đến chăm sóc y tế là một gợi ý đặc biệt hữu ích. Nếu bệnh nhân đến khám vì lo lắng về hiện tượng quên, thì nguyên nhân có thể là sự suy giảm trí nhớ liên quan đến tuổi tác. Nếu bệnh nhân ít quan tâm về tình trạng mất trí nhớ hơn các thành viên khác trong gia đình, và gia đình yêu cầu cần có đánh giá y tế cho bệnh nhân, thì chẩn đoán nghiêng về hướng sa sút trí tuệ hơn.

Xét nghiệm

Chẩn đoán mất trí nhớ chủ yếu là dựa vào lâm sàng. Tuy nhiên, bất kỳ biện pháp kiểm tra trạng thái tâm thần rút gọn nào cũng bị ảnh hưởng bởi năng lực trí tuệ và trình độ học vấn của bệnh nhân, đồng thời có độ chính xác hạn chế. Ví dụ, bệnh nhân có trình độ học vấn cao có thể đạt điểm cao giả tạo, và những người có trình độ thấp có thể đạt điểm thấp giả tạo.

Nếu chẩn đoán không rõ ràng, có thể thực hiện các trắc nghiệm thần kinh tâm lý chính xác và đầy đủ hơn; các kết quả sẽ có độ chẩn đoán chính xác hơn.

Nếu một loại thuốc hoặc chất kích thích nào đó là nguyên nhân bị nghi ngờ, có thể dừng thuốc hoặc thay thế bằng một loại thuốc khác để thử nghiệm chẩn đoán.

Điều trị các trường hợp trầm cảm rõ sẽ giúp tạo thuận lợi cho việc phân biệt giữa trầm cảm và suy giảm nhận thức nhẹ.

Nếu bệnh nhân có triệu chứng thần kinh (ví dụ, liệt, thay đổi dáng đi, động tác tự động), cần chụp MRI hoặc nếu không có MRI thì chụp CT.

Đối với hầu hết bệnh nhân, cần đo vitamin B12 huyết thanh, bảng xét nghiệm chuyển hóa hoàn chỉnh (bao gồm creatinine huyết thanh, xét nghiệm chức năng gan, canxi, magiê và glucose) và xét nghiệm chức năng tuyến giáp để loại trừ các nguyên nhân gây suy giảm trí nhớ có khả năng hồi phục.

Tài liệu tham khảo đánh giá

  1. 1. Nasreddine ZS, Phillips NA, Bédirian V, et al: The Montreal Cognitive Assessment, MoCA: A brief screening tool for mild cognitive impairment. J Am Geriatr Soc 53 (4):695–699, 2005 doi: 10.1111/j.1532-5415.2005.53221.x

  2. 2. Folstein MF, Folstein, McHugh PR: "Mini-mental state". A practical method for grading the cognitive state of patients for the clinician. J Psychiatr Res 12 (3):189–198, 1975. doi: 10.1016/0022-3956(75)90026-6

Điều trị mất trí nhớ

Nên trấn an các bệnh nhân bị suy giảm trí nhớ liên quan đến tuổi. Một số biện pháp chung thường được khuyến cáo để giúp duy trì chức năng và có thể làm giảm nguy cơ sa sút trí tuệ.

Bệnh nhân trầm cảm được điều trị bằng thuốc và/hoặc liệu pháp tâm lý.

Bệnh nhân bị mất trí nhớ và có dấu hiệu trầm cảm nên được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm không chứa chất kháng cholinergic, thường dùng các thuốc thuộc nhóm thuốc ức chế chọn lọc trên serotonin (SSRI). Mất trí nhớ có xu hướng giảm đi khi đỡ trầm cảm.

Điều trị mê sảng bằng cách điều trị các bệnh lý căn nguyên.

Trong một số ít các trường hợp, có thể đảo ngược tình trạng sa sút trí tuệ bằng điều trị đặc hiệu (ví dụ, bổ sung vitamin B12, bổ sung hormone tuyến giáp, dẫn lưu trong trường hợp tràn dịch não thất áp lực bình thường).

Điều trị hỗ trợ là biện pháp được áp dụng với các bệnh nhân mất trí nhớ.

Các biện pháp chung

Đây là những điểm được khuyến cáo cho những người lo lắng về mất trí nhớ:

  • Tập thể dục đều đặn

  • Thực hiện một chế độ ăn uống lành mạnh với nhiều trái cây và rau quả

  • Ngủ đủ giấc

  • Không hút thuốc

  • Giảm thiểu việc sử dụng rượu hoặc các chất khác (ví dụ: cần sa)

  • Tham gia vào các hoạt động xã hội và kích thích trí tuệ

  • Khám sức khoẻ định kỳ

  • Kiểm soát căng thẳng

  • Phòng ngừa thương tích ở đầu

Những biện pháp này, cùng với kiểm soát huyết áp, nồng độ cholesterol và glucose huyết tương, cũng làm giảm nguy cơ rối loạn tim mạch. Một số bằng chứng cho thấy các biện pháp này có thể làm giảm nguy cơ sa sút trí tuệ, nhưng tác dụng này chưa được chứng minh.

Một số chuyên gia khuyến cáo

  • Học những điều mới (ví dụ, một ngôn ngữ mới, một nhạc cụ mới)

  • Làm các bài tập trí tuệ (ví dụ: ghi nhớ danh sách; giải câu đố chữ; chơi cờ vua, cầu hoặc các trò chơi khác sử dụng chiến lược)

  • Đọc sách

  • Làm việc trên máy tính

  • Làm đồ thủ công (ví dụ như đan)

Những hoạt động này có thể giúp duy trì hoặc cải thiện chức năng nhận thức, có thể bởi vì chúng tăng cường các kết nối thần kinh và thúc đẩy tạo ra các kết nối mới.

An toàn cho bệnh nhân

Các nhà vận động trị liệu và vật lý trị liệu có thể đánh giá độ an toàn trong ngôi nhà của những bệnh nhân bị khuyết tật với mục tiêu phòng ngừa ngã và các tai nạn khác. Có thể cần các biện pháp bảo vệ (ví dụ như cất dao, rút điện bếp lò, chuyển xe đi nơi khác, cất chìa khóa xe). Nếu bệnh nhân lang thang, có thể lắp đặt hệ thống giám sát tín hiệu, hoặc bệnh nhân có thể được đăng ký trong chương trình Trở về An toàn (Safe Return). Thông tin có sẵn từ Hiệp hội Bệnh Alzheimer (Safe Return program).

Các bác sĩ lâm sàng nên biết vai trò của họ trong việc thông báo cho cơ quan cấp phép địa phương về bệnh nhân sa sút trí tuệ; yêu cầu báo cáo khác nhau tùy theo tiểu bang (ở Hoa Kỳ) và theo quốc gia.

Cuối cùng, có thể chỉ định sự hỗ trợ (ví dụ như người giúp việc gia đình, trợ lý chăm sóc sức khoẻ tại nhà) hoặc thay đổi môi trường (ví dụ như nhà ở không có bậc thang, cơ sở trợ giúp, cơ sở có điều dưỡng lành nghề).

Các biện pháp tác động môi trường

Các biện pháp tác động môi trường có thể giúp ích cho bệnh nhân sa sút trí tuệ.

Bệnh nhân bị sa sút trí tuệ thường hoạt động tốt nhất trong không gian quen thuộc, với sự củng cố định hướng thường xuyên(bằng cách sử dụng lịch và đồng hồ kích thước lớn), môi trường tươi sáng, vui vẻ và lịch sinh hoạt đều đặn. Phòng ở phải có các kích thích cảm giác (ví dụ, đài phát thanh, truyền hình, ánh sáng ban đêm).

Ở các bệnh viện, nhân viên có thể đeo thẻ tên lớn và thường xuyên tự giới thiệu mình. Những thay đổi trong môi trường xung quanh, thói quen, hoặc con người nên được giải thích cho bệnh nhân một cách chính xác và đơn giản, bỏ qua các thủ tục không cần thiết.

Các cuộc thăm viếng thường xuyên của nhân viên và những người quen thuộc khuyến khích bệnh nhân duy trì khả năng giao tiếp xã hội. Tất cả các loại hoạt động đều có ích; các hoạt động này nên có tính chất cuốn hút và kích thích, nhưng không có quá nhiều sự lựa chọn hoặc gây nhiều trở ngại cho bệnh nhân. Các bài tập để cải thiện sự cân bằng và duy trì sức khỏe tim mạch cũng có thể giúp làm giảm bớt bồn chồn, cải thiện giấc ngủ và kiểm soát hành vi. Liệu pháp hoạt động và liệu pháp âm nhạc giúp duy trì khả năng kiểm soát vận động tốt và tạo ra sự kích thích phi ngôn ngữ. Liệu pháp nhóm (ví dụ, liệu pháp hồi tưởng, các hoạt động xã hội) có thể giúp duy trì kỹ năng hội thoại và các kỹ năng giao tiếp.

Dược phẩm

Loại bỏ hoặc hạn chế các loại thuốc có hoạt tình trên hệ thần kinh trung ương (CNS) thường giúp cải thiện chức năng. Nên tránh các thuốc an thần và kháng cholinergic.

Các thuốc ức chế cholinesterase donepezil, rivastigmine và galantamine có hiệu quả vừa phải trong việc cải thiện chức năng nhận thức ở những bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer nhẹ đến trung bình hoặc sa sút trí tuệ thể Lewy và có thể hữu ích trong các dạng sa sút trí tuệ khác. Hiệu quả giảm dần theo thời gian.

Memantine, một chất đối kháng NMDA (N-metyl-d-partic), có thể được sử dụng trong sa sút trí tuệ vừa và nặng.

Donepezil có thể giúp cải thiện trí nhớ tạm thời cho bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ, nhưng lợi ích dường như rất khiêm tốn (1). Tuy nhiên, thuốc ức chế cholinesterase thường không được khuyến nghị để tăng cường nhận thức hoặc trí nhớ ở bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ vì bằng chứng về hiệu quả là không đủ và nguy cơ bị các biến cố bất lợi (đặc biệt là đường tiêu hóa [2]) tăng lên.

Aducanumab là kháng thể đơn dòng có tác dụng làm giảm các mảng beta-amyloid tích tụ trong não ở bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, dữ liệu tích lũy đã không thuyết phục được nhiều chuyên gia rằng aducanumab ngăn ngừa hoặc giảm các triệu chứng và/hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer. Có aducanumab để điều trị bệnh Alzheimer nhưng nên giới hạn ở những bệnh nhân có triệu chứng nhẹ. Lecanemab đang được sử dụng để điều trị bệnh Alzheimer và donanemab có thể sẽ sớm được cung cấp; các thuốc này cũng là thuốc chống dạng tinh bột.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Petersen RC, Thomas RG, Grundman M, et al: Vitamin E and donepezil for the treatment of mild cognitive impairment. N  Engl J Med. 352 (23):2379–2388, 2005 doi: 10.1056/NEJMoa050151 Xuất bản điện tử ngày 13 tháng 4 năm 2005.

  2. 2. Russ TC, Morling JR: Cholinesterase inhibitors for mild cognitive impairment. Cochrane Database Syst Rev 2012 (9): CD009132, 2012. Xuất bản trực tuyến ngày 12 tháng 9 năm 2012. https://doi.org/10.1002/14651858 CD009132.pub2

Những điểm thiết yếu ở đối tượng người già: Mất trí nhớ

Suy giảm nhận thức nhẹ phổ biến ở người cao tuổi. Tỷ lệ hiện mắc ước tính thay đổi tùy theo nghiên cứu nhưng nhìn chung tăng theo độ tuổi; một số nghiên cứu báo cáo khoảng 7% ở tuổi 60 và cao tới 25% sau 80 tuổi (1).

Sa sút trí tuệ là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tình trạng nhập viện, bệnh tật và tử vong ở người cao tuổi. Bản thân quá trình lão hóa gây ra hầu hết các nguy cơ của sa sút trí tuệ. Tỷ lệ mất trí nhớ

  • Khoảng 1% ở độ tuổi 60 đến 64

  • 3% ở độ tuổi 65 đến 74 tuổi

  • Gần 15% số người từ 75 tuổi đến 79 tuổi

  • Khoảng 25% số người từ 80 tuổi đến 84 tuổi

  • 30 đến 50% ở độ tuổi > 85 tuổi

  • 60 đến 80% trong số người cao tuổi ở nhà dưỡng lão

Tài liệu tham khảo cơ bản về lão khoa

  1. 1. Petersen RC, Lopez O, Armstrong MJ, et al: Practice guideline update summary: Mild cognitive impairment. Report of the Guideline Development, Dissemination, and Implementation Subcommittee of the American Academy of Neurology. Practice Guideline. Neurology 16;90 (3):126–135, 2018. doi: 10.1212/WNL.0000000000004826 Xuất bản ngày 27 tháng 12 năm 2017.

Những điểm chính

  • Mất trí nhớ và mất trí nhớ thường gặp ở người cao tuổi và là nguyên nhân gây lo lắng thường gặp cho họ.

  • Sự suy giảm trí nhớ liên quan đến tuổi rất phổ biến, gây ra sự chậm chạp trong trí nhớ và hoạt động nhân thức, nhưng chưa gây suy thoái các chức năng này.

  • Chẩn đoán chủ yếu dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng, đặc biệt là khí sắc, sự chú ý, mất trí nhớ thật sự và ảnh hưởng đến hoạt động chức năng hàng ngày.

  • Loại trừ kịp thời các nguyên nhân gây sa sút trí tuệ có thể hồi phục và có thể điều trị được (một số loại đột quỵ, trầm cảm, co giật, chấn thương đầu, nhiễm trùng não, suy giáp, nhiễm HIV, tràn dịch não áp lực bình thường, u não, thiếu vitamin B12, lạm dụng một số loại thuốc và chất kích thích bao gồm cả rượu).

  • Việc khai thác đầy đủ tiền sử sử dụng thuốc và chất kích thích là rất quan trọng vì thuốc an thần và thuốc kháng cholinergic có thể gây mất trí nhớ và có thể phục hồi bằng cách ngừng dùng thuốc.

  • Nếu bệnh nhân có triệu chứng thần kinh (ví dụ, liệt, thay đổi dáng đi, động tác tự động), cần chụp MRI hoặc CT.

  • Hiện tượng mất trí nhớ do bệnh nhân tự kể thường không phải do sa sút trí tuệ.

  • Mê sảng và trầm cảm phải được loại trừ trước khi chẩn đoán sa sút trí tuệ.

Thông tin thêm

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

  1. Alzheimer's Association: Trang web này có thông tin về chứng sa sút trí tuệ nói chung và bệnh Alzheimer (chẳng hạn như số liệu thống kê, nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, các triệu chứng và dấu hiệu ban đầu, các lựa chọn chăm sóc và chăm sóc hàng ngày dành cho người bị bệnh Alzheimer). Nó cũng bao gồm các mẹo để cải thiện sức khỏe não bộ và liên kết với các nhóm hỗ trợ và các nguồn lực địa phương.