Ung thư biểu mô tế bào thận

(Ung thư biểu mô tuyến thận)

TheoThenappan Chandrasekar, MD, University of California, Davis
Xem xét bởiLeonard G. Gomella, MD, Sidney Kimmel Medical College at Thomas Jefferson University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 2 2025
v1060019_vi
Ung thư tế bào thận (RCC) là ung thư thận phổ biến nhất. Các triệu chứng có thể bao gồm tiểu máu, đau mạn sườn, sờ thấy u và sốt không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, thường không có triệu chứng, do đó chẩn đoán thường được nghi ngờ dựa trên những phát hiện ngẫu nhiên. Chẩn đoán được xác nhận bởi CT hoặc MRI và đôi khi bằng sinh thiết. Phương pháp điều trị bao gồm phẫu thuật đối với bệnh ở giai đoạn đầu và liệu pháp toàn thân, phác đồ thử nghiệm hoặc liệu pháp giảm nhẹ đối với bệnh ở giai đoạn tiến triển.

Nguồn chủ đề

RCC, ung thư biểu mô tuyến, chiếm từ 90 đến 95% khối u thận ác tính nguyên phát. Các khối u thận nguyên phát ít phổ biến hơn bao gồm ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp, khối u Wilms (thường gặp ở trẻ em) và sarcoma.

Tại Hoa Kỳ, có khoảng 81.610 ca mắc RCC và các khối u thận khác mới và 14.390 ca tử vong (ước tính năm 2024) xảy ra mỗi năm (1). RCC xảy ra thường xuyên hơn ở nam giới (tỷ lệ nam:nữ là khoảng 2:1). Những người mắc RCC thường có chẩn đoán ở độ tuổi từ 65 tuổi đến 74 tuổi. Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

RCC có thể gây ra sự hình thành huyết khối trong tĩnh mạch thận, đôi khi lan đến tĩnh mạch chủ. Sự xâm lấn thành tĩnh mạch không phổ biến. RCC thường di căn nhất đến các hạch bạch huyết, phổi, tuyến thượng thận, gan, não và xương.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. American Cancer Society: Key statistics about kidney cancer. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2025.

Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư thận

Triệu chứng thường không xuất hiện cho đến giai đoạn muộn, khi khối u có thể đã lớn và di căn. Đái máu đại thể hoặc vi thể là biểu hiện phổ biến nhất, sau đó là đau hạ sườn, sốt không rõ nguyên nhân (FUO) và sờ thấy một khối. Các triệu chứng không đặc hiệu khác có thể bao gồm mệt mỏi, sụt cân và cảm thấy no sớm. Đôi khi tăng huyết áp do thiếu máu cục bộ hoặc chèn ép cuống thận. Hội chứng cận u xảy ra ở 20% bệnh nhân. Đa hồng cầu có thể do tăng hoạt tính của erythropoietin. Tuy nhiên, thiếu máu cũng có thể xảy ra. Tăng canxi máu là tình trạng phổ biến và có thể cần điều trị. Giảm tiểu cầu, suy nhược hoặc thoái hóa tinh bột thứ phát.

Chẩn đoán ung thư thận

  • CT có tiêm thuốc cản quang hoặc MRI

Thông thường, một khối ở thận được phát hiện tình cờ trong quá trình chẩn đoán hình ảnh bụng hoặc cột sống (ví dụ: CT, siêu âm, MRI) được thực hiện vì những lý do khác. Nếu không thì chẩn đoán được đặt ra nhờ các thăm khám lâm sàng và được xác nhận bằng CT bụng trước và sau khi tiêm cản quang hoặc bằng MRI. (Xem Chẩn đoán hình ảnh sinh dục tiết niệu.) Một khối u thận ngấm thuốc cản quang mạnh gợi ý ung thư tế bào thận (RCC). CT và MRI cũng cung cấp thông tin về sự lan rộng cục bộ, hạch và mạch máu liên quan. MRI cung cấp thêm thông tin về sự lan rộng vào tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ và đã thay thế kỹ thuật chụp tĩnh mạch chủ dưới. Siêu âm và chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV) có thể thấy u nhưng cung cấp ít thông tin hơn về đặc điểm của khối u và mức độ của bệnh so với CT hoặc MRI.

Thông thường, các khối lành tính và ác tính có thể được phân biệt bằng X quang, nhưng đôi khi cần phải sinh thiết hoặc phẫu thuật để xác nhận. Sinh thiết bằng kim không có đủ độ nhạy khi các dấu hiệu không giống nhau; nó chỉ được khuyến nghị khi chẩn đoán sẽ ảnh hưởng đến lựa chọn điều trị, chẳng hạn như khi có một dạng thâm nhiễm thay vì một khối rời rạc, khi khối ở thận có thể là di căn từ một bệnh ung thư đã biết khác hoặc đôi khi để xác định chẩn đoán trước khi hóa trị hoặc liệu pháp toàn thân để điều trị khối di căn ở thận.

Chụp CT ba chiều, CT dựng hình mạch, hoặc chụp cộng hưởng từ được sử dụng trước khi phẫu thuật, đặc biệt là trước phẫu thuật để lại nephron, để xác định bản chất của RCC, xác định chính xác hơn số lượng các động mạch thận và dựng hình mạch máu. (Xem Chẩn đoán hình ảnh sinh dục tiết niệu.) Các kỹ thuật hình ảnh này đã thay thế chụp động mạch và chụp động mạch thận chọn lọc.

X-quang ngực và các xét nghiệm chức năng gan là rất cần thiết. Nếu chụp X-quang ngực có bất thường, tiến hành CT ngực. Nếu phosphatase kiềm tăng cao, xạ hình xương cần được làm. Các chất điện giải trong huyết thanh, nitơ urê máu (BUN), creatinine và canxi được đo. BUN và creatinine không bị ảnh hưởng trừ khi cả hai thận đều bị bệnh.

Chụp PET/CT bằng fluorodeoxyglucose (FDG) không được thực hiện thường quy ở hầu hết bệnh nhân mắc RCC nguyên phát, nhưng có thể có lợi cho việc phân loại giai đoạn trước phẫu thuật ở các khối u có nguy cơ cao và đánh giá phản ứng với các liệu pháp toàn thân trong bệnh di căn. Một thuốc tạo ảnh PET mới, zirconium-89 (89Zr)-deferoxamine (DFO)-girentuximab, có thể xác định ung thư biểu mô tế bào thận rõ ràng (ccRCC) với độ nhạy và độ đặc hiệu cao (1).

Phân giai đoạn

Thông tin từ đánh giá sơ bộ giai đoạn. Hệ thống TNM (khối u, hạch, di căn) đã được cải tiến để đảm bảo chính xác (xem bảng AJCC/TNM Phân loại giai đoạn ung thư biểu mô tế bào thậnĐịnh nghĩa TNM của ung thư biểu mô tế bào thận). Khi chẩn đoán, RCC khu trú ở 70% số bệnh nhân, xâm lấn tại chỗ ở khoảng 20% số bệnh nhân ​​và lan đến các cơ quan xa ở 11% số bệnh nhân. (2).

Bảng
Bảng
Bảng
Bảng

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Roussel E, Capitanio U, Kutikov A, et al. Novel imaging methods for renal mass characterization: A collaborative review. Eur Urol. 81(5):476-488, 2022. doi: 10.1016/j.eururo.2022.01.040

  2. 2. Patel HD, Gupta M, Joice GA, et al. Clinical Stage Migration and Survival for Renal Cell Carcinoma in the United States. Eur Urol Oncol. 2019;2(4):343-348. doi:10.1016/j.euo.2018.08.023

Điều trị ung thư thận

  • Đối với ung thư biểu mô tế bào thận giai đoạn đầu (RCC), điều trị phẫu thuật, giám sát tích cực hoặc các kỹ thuật cắt bỏ

  • Đối với RCC tiến triển, liệu pháp giảm nhẹ hoặc các phương pháp điều trị thử nghiệm

Điều trị tiệt căn

Cắt thận triệtc căn (cắt bỏ thận, mỡ quanh thận, cân Gerota +/- tuyến thượng thận một bên) là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho RCC khu trú và mang lại cơ hội chữa khỏi hợp lý. Có thể so sánh các kết quả với các thủ thuật mở hoặc xâm lấn tối thiểu; phục hồi thường dễ dàng hơn với các thủ thuật xâm lấn tối thiểu. Phẫu thuật để lại nephron (cắt thận bán phần) có thể thực hiện được và thích hợp cho nhiều bệnh nhân. Phẫu thuật cắt thận một phần ngày càng phổ biến vì ít dẫn đến hậu quả bệnh thận mạn tính hơn phẫu thuật cắt thận triệt để. Đây là điều trị tiêu chuẩn đối với các khối u giai đoạn T1a trên lâm sàng (cT1a, < 4 cm) và cần được xem xét ở những bệnh nhân có khối u T1b hoặc T2 và những bệnh nhân có chỉ định bảo tồn nephron tuyệt đối (ví dụ khối ở thận hai bên, bệnh thận mạn, thận đơn độc). Cắt thận triệt để nên được xem xét ở những bệnh nhân có thận đối bên bình thường, chức năng thận bình thường và các khối u nguyên phát tiến triển hơn (cT1b đến cT4).

Việc phá hủy không phẫu thuật các khối u thận thông qua đông lạnh (phẫu thuật lạnh) hoặc năng lượng nhiệt (cắt bỏ bằng tần số vô tuyến), thường là qua da, nên được xem xét đối với các khối u nhỏ hơn 3 cm. Đối với các khối nhỏ ở thận, giám sát tích cực (có can thiệp chậm) nên được coi là phương án điều trị bước đầu, đặc biệt là nếu các phương pháp điều trị tích cực có nguy cơ và/hoặc bệnh nhân có các bệnh đi kèm đáng kể. Việc ra quyết định điều trị rất phức tạp và đa yếu tố và thường liên quan đến việc ra quyết định chung (1).

Đối với các khối u có liên quan đến tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ, phẫu thuật có thể chữa khỏi nếu không có di căn hạch hay di căn xa.

Nếu cả hai thận bị ảnh hưởng, phẫu thuật cắt thận một phần của một hoặc cả hai thận tốt hơn là phẫu thuật cắt toàn bộ hai thận nếu khả thi về mặt kỹ thuật.

Sử dụng bổ trợ của liệu pháp nhắm mục tiêu sau phẫu thuật đã không kéo dài thời gian sống thêm trong nhiều thử nghiệm lâm sàng, nhưng cải thiện tỷ lệ sống sót không thấy bệnh ở những bệnh nhân sử dụng sunitinib bổ trợ trong phẫu thuật (2). Việc sử dụng nó đã bị hạn chế. Nghiên cứu KEYNOTE-564 (3) cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ về tỷ lệ sống sót không có bệnh và thời gian sống thêm tổng thể ở những bệnh nhân được điều trị bằng pembrolizumab làm một liệu pháp bổ trợ cho những bệnh nhân RCC tế bào sáng đã được điều trị bằng phẫu thuật có nguy cơ tái phát cao (RCC tế bào sáng khu trú có đặc điểm giống sarcoma; mô bệnh học cấp độ 4 của Hiệp hội Bệnh lý tiết niệu Quốc tế (ISUP); hoặc RCC di căn hoặc giai đoạn tiến triển tại chỗ đã cắt bỏ hoàn toàn).

Điều trị giảm nhẹ

Giảm nhẹ có thể bao gồm phẫu thuật cắt bỏ thận, thuyên tắc khối u, xạ trị bằng chùm tia ngoài và liệu pháp toàn thân. Cắt mô di căn tỏ ra có tác dụng giảm nhẹ và nếu di căn bị giới hạn về số lượng, sẽ kéo dài cuộc sống ở một số bệnh nhân, đặc biệt là những người có thời gian lui bệnh kéo dài kể từ khi điều trị ban đầu (cắt thận) tới khi tiến triển di căn. Mặc dù RCC di căn được coi là kháng xạ trị, xạ trị có thể hỗ trợ giảm nhẹ khi RCC ít di căn, đặc biệt là vào xương.

Các liệu pháp toàn thân là trụ cột trong quản lý bệnh nhân RCC di căn. Điều trị bằng thuốc làm giảm kích thước khối u và kéo dài tuổi thọ. Khoảng 10% đến 20% số bệnh nhân đáp ứng với interferon alfa-2b hoặc IL-2, mặc dù phản ứng này kéo dài trong < 5% số bệnh nhân (4). Nhiều liệu pháp nhắm mục tiêu đã cho thấy hiệu quả đối với các khối u giai đoạn tiến triển: sunitinib, sorafenib, bevacizumab, pazopanib, cabozantinib, axitinib và lenvatinib (thuốc ức chế tyrosine kinase) và temsirolimus và everolimus, thuốc ức chế mục tiêu rapamycin ở động vật có vú (mTOR) (4).

Tuy nhiên, các liệu pháp toàn thân mới nhất hiện có cho RCC di căn là thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (ICI) (4). Kháng thể đơn dòng này chống lại PD-1 hoặc PD-L1 có tác dụng bằng cách ngăn chặn sự tương tác PD-1/PD-L1 giữa tế bào u và tế bào T xâm nhiễm, do đó ngăn chặn sự ức chế miễn dịch qua trung gian PD-1, bao gồm phản ứng miễn dịch chống u. Các phương pháp điều trị toàn thân bước đầu cho bệnh nhân RCC di căn là liệu pháp phối hợp (ICI +/- liệu pháp nhắm mục tiêu, hóa trị hoặc ICI thứ hai); các liệu pháp phối hợp bao gồm pembrolizumab + axitinib, nivolumab + cabozantinib, pembrolizumab + levantinib và ipilimumab + cabozantonib. Lựa chọn phối hợp dựa trên việc xác định nguy cơ mắc bệnh di căn tái phát (nguy cơ thuận lợi, trung bình hoặc kém) theo định nghĩa của tiêu chí nguy cơ của Liên đoàn cơ sở dữ liệu RCC di căn quốc tế. Ở một số bệnh nhân, phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn (bao gồm cả di căn) hoặc phối hợp phẫu thuật và xạ trị cho tất cả các vị trí bệnh có thể được cân nhắc thay thế cho liệu pháp đường toàn thân. Các thử nghiệm lâm sàng là cần thiết.

Các phương pháp điều trị khác đang được thử nghiệm. Chúng bao gồm ghép tế bào gốc, các interleukin khác, liệu pháp chống sinh mạch (như thalidomide), và liệu pháp vắc-xin. Các loại thuốc trị liệu truyền thống, đơn độc hoặc kết hợp và progestins đều không có hiệu quả.

Phẫu thuật cắt bỏ khối u thận ban đầu trước khi điều trị theo đường toàn thân hiện đang gây tranh cãi vì CARMENA (Thử nghiệm lâm sàng đánh giá tầm quan trọng của phẫu thuật cắt bỏ thận), một thử nghiệm phân nhóm ngẫu nhiên giai đoạn III so sánh phẫu thuật cắt bỏ khối u thận ban đầu tiếp theo là sunitinib và chỉ dùng sunitinib, cho thấy thời gian sống thêm không tệ hơn khi chỉ điều trị bằng sunitinib (5); tuy nhiên, thử nghiệm đó đã bị chỉ trích vì lựa chọn bệnh nhân (chủ yếu là những bệnh nhân có nguy cơ thấp với rất ít bệnh nhân có nguy cơ trung bình).

Các khuyến nghị hiện tại là xem xét phẫu thuật cắt bỏ khối u thận ban đầu trước khi điều trị theo đường toàn thân ở những bệnh nhân có bất kỳ tiêu chuẩn nào sau đây (4):

  • Gánh nặng bệnh tật cao hơn trong thận

  • Chảy máu có triệu chứng hoặc đau do khối u nguyên phát

  • Có hội chứng cận u liên quan đến khối u nguyên phát

  • Thể trạng chung tốt kèm theo chức năng thận đối bên bình thường

Sự hiểu biết sâu hơn về các phân nhóm di truyền của RCC giúp đưa ra các khuyến cáo quản lý bệnh cụ thể hơn.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Chandrasekar T, Boorjian SA, Capitanio U, et al: Collaborative review: Factors influencing treatment decisions for patients with a localized solid renal mass. Eur Urol. 80(5):575-588, 2021. doi: 10.1016/j.eururo.2021.01.021

  2. 2. Ravaud A, Motzer RJ, Pandha HS et al: Adjuvant sunitinib in high-risk renal-cell carcinoma after nephrectomy. N Engl J Med.  8;375(23):2246-2254, 2016. doi: 10.1056/NEJMoa1611406

  3. 3. Choueiri TK, Tomczak P, Park SH, et al for the KEYNOTE-564 Investigators: Adjuvant pembrolizumab after nephrectomy in renal-cell carcinoma. N Engl J Med . 385(8):683-694, 2021. doi: 10.1056/NEJMoa2106391

  4. 4. Rathmell WK, Rumble RB, Van Veldhuizen PJ, et al. Management of Metastatic Clear Cell Renal Cell Carcinoma: ASCO Guideline. J Clin Oncol. 2022;40(25):2957-2995. doi:10.1200/JCO.22.00868

  5. 5. Mejean A, Ravaud A, Thezenas S, et al: Sunitinib alone or after nephrectomy in metastatic renal-cell carcinoma. N Eng J Med. 379:417-427, 2018. doi: 10.1056/NEJMoa1803675

Tiên lượng về ung thư thận

Tỷ lệ của thời gian sống thêm năm năm dao động từ hơn 90% đối với bệnh tại chỗ đến dưới 20% đối với những bệnh nhân có di căn xa (1). Tiên lượng kém đối với những bệnh nhân ung thư tế bào thân (RCC) di căn hoặc tái phát vì các phương pháp điều trị thường không thể chữa khỏi, mặc dù chúng có thể hữu ích cho việc giảm nhẹ.

Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh

  1. 1. Siegel RL, Giaquinto AN, Jemal A. Cancer statistics, 2024 [published correction appears in CA Cancer J Clin. Tháng 3-tháng 4 năm 2024;74(2):203. doi: 10.3322/caac.21830]. CA Cancer J Clin. 2024;74(1):12-49. doi:10.3322/caac.21820

Những điểm chính

  • RCC, ung thư biểu mô tuyến, chiếm từ 90 đến 95% khối u thận ác tính nguyên phát.

  • Các triệu chứng (thường là tiểu máu đại thể hoặc vi thể) thường không biểu hiện cho đến khi khối u lớn hoặc di căn, do đó phát hiện thường là ngẫu nhiên.

  • Chẩn đoán RCC bằng chụp MRI hoặc chụp CT tăng cường thuốc cản quang và chụp X-quang ngực, xét nghiệm máu (bao gồm cả xét nghiệm gan) để nghiên cứu về việc phân giai đoạn.

  • Điều trị hầu hết các trường hợp RCC khu trú bằng phẫu thuật, giám sát tích cực hoặc cắt đốt bằng nhiệt.

  • Điều trị RCC giai đoạn tiến triển bằng liệu pháp miễn dịch phối hợp, điều trị bằng thuốc nhắm đích, interferon alfa-2b hoặc IL-2, xạ trị giảm nhẹ và/hoặc phẫu thuật.

quizzes_lightbulb_red
Test your Knowledge