Ung thư Tinh hoàn

TheoThenappan Chandrasekar, MD, University of California, Davis
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 2 2025

Ung thư tinh hoàn bắt đầu bằng một khối ở bìu, thường không gây đau đớn. Chẩn đoán bằng siêu âm. Điều trị bằng phẫu thuật cắt tinh hoàn và thỉnh thoảng vét hạch, xạ trị, hóa trị hoặc kết hợp, tùy thuộc vào mô học và giai đoạn.

Tại Hoa Kỳ, có khoảng 9760 ca ung thư tinh hoàn mới và khoảng 500 ca tử vong (ước tính vào năm 2024) xảy ra mỗi năm (1). Ung thư tinh hoàn là dạng ung thư khối đặc phổ biến nhất ở nam giới từ 15 đến 35 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn từ 2,5 đến 20 lần đối với bệnh nhân có tinh hoàn ẩn. Rủi ro quá mức này sẽ giảm hoặc loại trừ nếu phẫu thuật chuyển tinh hoàn được thực hiện trước 10 tuổi. Ung thư cũng có thể xảy ra ở tinh hoàn đi xuống dưới bìu bình thường ở đối bên. Nguyên nhân gây ra ung thư tinh hoàn không rõ.

Hầu hết các ung thư tinh hoàn xuất phát từ tế bào mầm nguyên thủy. Các khối u tế bào mầm được phân loại thành ung thư tuyến tinh (40%) hoặc ung thư không tuyến tinh (khối u chứa bất cứ thành phần không tuyến tinh nào; 60%). Ung thư không tuyến tinh bao gồm u quái, ung thư biểu mô phôi, u xoang nội bì (u túi noãn hoàng) và ung thư biểu mô rau. Sự kết hợp mô học là phổ biến; ví dụ, u biểu mô quái có chứa u quái cùng với ung thư biểu mô phôi. Ung thư tế bào kẽ chức năng của tinh hoàn rất hiếm gặp (< 5%) (2).

Ngay cả những bệnh nhân có khối u dường như khu trú có thể có các di căn hạch hay nội tạng tiềm ẩn. Ví dụ: gần 30% số bệnh nhân không phải u tinh hoàn sẽ tái phát với di căn hạch hoặc nội tạng nếu họ không được điều trị sau khi cắt bỏ tinh hoàn (2). Nguy cơ di căn là cao nhất đối với ung thư biểu mô rau và thấp nhất đối với u quái.

Các khối u có nguồn gốc từ mào tinh hoàn, phần phụ của tình hoàn, và dây thần kinh thường là những u xơ lành tính, u xơ tuyến, u dạng tuyến và u mỡ. Sarcoma, thường gặp nhất là sarcoma cơ vân, xảy ra ít, chủ yếu ở trẻ em.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. American Cancer Society: Key statistics for testicular cancer. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2025.

  2. 2. Goldberg H, Klaassen Z, Chandrasekar T, Fleshner N, Hamilton RJ, Jewett MAS. Germ Cell Testicular Tumors-Contemporary Diagnosis, Staging and Management of Localized and Advanced disease. Urology. 2019;125:8-19. doi:10.1016/j.urology.2018.12.025

Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư tinh hoàn

Hầu hết bệnh nhân đều có khối ở bìu, không đau hoặc đôi khi kèm theo cảm giác đau nhức âm ỉ. Ở một vài bệnh nhân, xuất huyết trong khối u có thể gây ra đau cấp tính và đau khi sờ nắn. Nhiều bệnh nhân tự phát hiện thấy khối sau khi bị chấn thương nhẹ vùng bìu. Hiếm khi bệnh nhân mắc bệnh di căn rộng có các triệu chứng liên quan đến di căn của họ (ví dụ: đau bụng, đau thắt lưng, lú lẫn hoặc đau đầu, khó thở, đau ngực).

Chẩn đoán ung thư tinh hoàn

  • Siêu âm khối u vùng bìu

  • Thăm dò nếu có khối u ở bìu

  • Phân giai đoạn bằng CT bụng, khung chậu, và CT ngực cũng như giải phẫu bệnh

  • Các chất chỉ điểm khối u trong huyết thanh như là AFP (alpha-fetoprotein) và beta-HCG (chất hướng sinh dục màng đệm người)

Nhiều bệnh nhân tự khám thấy khối u. Khuyến khích nam giới trẻ tự kiểm tra hàng tháng.

Nguồn gốc và bản chất của khối u bìu phải được xác định chính xác vì hầu hết các khối u tinh hoàn là ác tính, nhưng hầu hết các khối u ngoài tinh hoàn thì không; việc phân biệt giữa 2 loại này trong khi khám thực thể có thể khó khăn. Siêu âm bìu có thể xác định được nguồn gốc khối u tinh hoàn. Nếu xác định được một khối u tinh hoàn, cần đo nồng độ các chất chỉ điểm khối u trong huyết thanh (AFP, betaHCG và lactate dehydrogenase [LDH]) và chụp X-quang ngực. Marker huyết thanh có thể giúp phân biệt lành tính và ác tính nhưng kết quả không rõ ràng. Sau đó, có chỉ định phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn triệt để qua đường bẹn; thừng tinh được bộc lộ và được kẹp trước khi thao táo tinh hoàn bất thường.

Nếu ung thư được xác nhận, cần chụp CT bụng, chậu và ngực để phân giai đoạn lâm sàng sử dụng hệ thống TNM chuẩn (khối u, hạch, di căn)(xem bảng AJCC/TNM Giai đoạn Ung thư Tinh hoànĐịnh nghĩa TNM và Dấu hiệu Huyết thanh cho Ung thư Tinh hoàn). Mô bệnh phẩm thu được trong quá trình điều trị (thường là phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn nạo vét hạch bẹn tiệt căn) giúp cung cấp thông tin mô bệnh học quan trọng, đặc biệt là về tỷ lệ các loại mô học và sự xâm nhập mạch máu u hoặc mạch bạch huyết. Những thông tin như vậy có thể dự đoán nguy cơ di căn hạch hoặc di căn nội tạng. Bệnh nhân có u không tinh có khoảng 30% nguy cơ tái phát mặc dù có biểu hiện của bệnh khu trú. U tinh hoàn tái phát ở khoảng 15% số bệnh nhân như vậy (1).

Bảng
Bảng
Bảng
Bảng

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Kollmannsberger C, Tandstad T, Bedard PL, et al. Patterns of relapse in patients with clinical stage I testicular cancer managed with active surveillance. J Clin Oncol. 2015;33(1):51-57. doi:10.1200/JCO.2014.56.2116

Điều trị ung thư tinh hoàn

  • Phẫu thuật cắt tinh hoàn nạo vét hạch bẹn triệt để

  • Đôi khi xạ trị hoặc hóa trị cho u tinh hoàn

  • Hóa trị hoặc phẫu thuật cho những trường hợp không phải u tinh hoàn

  • Giám sát chủ động

Phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn ở bẹn (cắt bỏ tinh hoàn và thừng tinh) triệt căn là nền tảng của phương pháp điều trị và giúp cung cấp thông tin chẩn đoán quan trọng; nó cũng giúp xây dựng kế hoạch điều trị tiếp theo. Có thể đặt tinh hoàn giả thế chỗ trong phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn. Các tinh hoàn giả bằng silicon không áp dụng rộng rãi do những vấn đề xảy ra với như cấy ngực silicone. Tuy nhiên, cấy túi nước muối đã được phát triển. Đối với nam giới muốn duy trì khả năng sinh sản, trữ tinh trùng ở ngân hàng tinh trùng trước khi tiến hành liệu pháp xạ trị hoặc hóa trị liệu.

Cắt bỏ hạch bạch huyết

Đối với u tinh hoàn, phẫu thuật cắt bỏ hạch bạch huyết sau phúc mạc thường được thực hiện sau khi cắt tinh hoàn ở những bệnh nhân có bệnh lý hạch < 3 cm, nhưng liệu pháp toàn thân vẫn là điều trị tiêu chuẩn.

Đối với các trường hợp không phải u tinh hoàn, nhiều chuyên gia coi phương pháp điều trị tiêu chuẩn sau cắt bỏ tinh hoàn là cắt bỏ hạch bạch huyết sau phúc mạc. Tuy nhiên, đối với khối u giai đoạn lâm sàng 1 ở những bệnh nhân không có yếu tố tiên lượng dự đoán tái phát, phương pháp được khuyến nghị là theo dõi tích cực (thường xuyên đo các dấu hiệu huyết thanh, chụp X-quang ngực, chụp CT). Khối u hạch sau phúc mạc có kích thước trung bình có thể được điều trị bằng cách cắt bỏ hạch sau phúc mạc trước hoặc hóa trị liệu (ví dụ: bleomycin, etoposide, cisplatin), nhưng trình tự tối ưu vẫn chưa được quyết định.

Sự cắt bỏ các hạch bạch huyết được thực hiện bằng phẫu thuật nội soi tại một số trung tâm. Tác dụng bất lợi phổ biến nhất của việc cắt bỏ các hạch bạch huyết nói chung là suy giảm khả năng xuất tinh. Tuy nhiên, phẫu thuật bảo tồn dây thần kinh thường khả thi, đặc biệt đối với khối u giai đoạn sớm, đảm bảo cho sự xuất tinh.

Liệu pháp bức xạ

Một lựa chọn cho ung thư tuyến lệ sau phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn một bên là xạ trị, thường là 20 đến 40 grays (Gy; một liều cao hơn được sử dụng cho bệnh nhân có khối u nút) đến các vùng cạnh động mạch chủ. Khu vực bẹn chậu cùng bên không còn được đưa vào điều trị thường quy. Thỉnh thoảng, vùng trung thất và vùng thượng đòn trái cũng cần chiếu xạ, tùy thuộc vào giai đoạn lâm sàng. Tuy nhiên, trong bệnh giai đoạn I, carboplatin đơn liều đã thay thế xạ trị phần lớn do lo ngại về độc tính tim mạch kéo dài và tỷ lệ mắc ung thư cao hơn và tử vong do xạ trị. Không có vai trò của xạ trị trong ung thư không tuyến tinh.

Hóa trị liệu

Khối hạch > 5 cm, di căn hạch phía trên cơ hoành, di căn nội tạng hoặc các dấu hiệu khối u tăng cao dai dẳng cần hóa trị liệu phối hợp có bạch kim ban đầu, sau đó là phẫu thuật củng cố để điều trị các khối tồn dư (nếu các chất chỉ điểm khối u bình thường hóa bằng liệu pháp toàn thân). Việc điều trị như vậy thường kiểm soát khối u lâu dài. Khả năng sinh sản thường bị suy giảm; do đó, cần xem xét việc gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng trước điều trị. Tuy nhiên, không có nguy cơ nào đối với thai nhi được chứng minh nếu có thai.

Giám sát

Việc theo dõi được ưu tiên thực hiện đối với những bệnh nhân mắc u tinh hoàn giai đoạn 1 hoặc u tế bào mầm không phải u tinh hoàn sau phẫu thuật cắt tinh hoàn. Phương pháp này thường được áp dụng cho những bệnh nhân có nguy cơ tái phát thấp. Bệnh nhân có nguy cơ cao có thể được điều trị bổ trợ, bằng cách cắt bỏ hạch sau phúc mạc hoặc 1 đến 2 đợt hóa trị.

Tái phát

Ung thư không tuyến tinh tái phát thường được điều trị bằng hóa trị liệu, mặc dù trì hoãn phẫu thuật cắt bỏ hạch sau phúc mạc có thể thích hợp cho một số bệnh nhân tái phát hạch, các chất chỉ điểm khối u bình thường và không có bằng chứng di căn nội tạng.

Tiên lượng cho bệnh ung thư tinh hoàn

Tiên lượng phụ thuộc vào mô học và mức độ lan rộng của khối u. Tỉ lệ sống sót 5 năm là > 95% đối với bệnh nhân có ung thư tinh hoặc ung thư không tuyến tinh khu trú ở tinh hoàn hoặc có ung thư không tuyến tinh và có khối di căn sau phúc mạc có thể tích nhỏ. Tỷ lệ sống 5 năm của bệnh nhân di căn lan rộng sau phúc mạc hoặc với các di căn phổi hoặc di căn nội tạng khác dao động từ 48% (đối với một số ung thư không tuyến tinh) đến > 80%, tùy thuộc vào vị trí, thể tích và mô học của di căn, nhưng ngay cả bệnh nhân có bệnh tiến triển vẫn có thể được chữa khỏi.

Những điểm chính

  • Ung thư tinh hoàn là dạng ung thư tạng đặc phổ biến nhất ở nam giới từ 15 đến 35 tuổi nhưng thường được chữa khỏi, đặc biệt là ung thư tuyến tinh.

  • Đánh giá khối u bìu bằng siêu âm và nếu chúng có nguồn gốc từ tinh hoàn, tiến hành chụp X-quang ngực và đo AFP (alpha-fetoprotein), beta HCG (gonadotropin màng đệm người) và LDH (lactate dehydrogenase).

  • Điều trị chủ yếu là cắt bỏ tinh hoàn triệt căn ở bẹn, sau đó là giám sát, hóa trị, xạ trị hoặc bóc tách hạch sau phúc mạc.