Giảm cân ngoài ý muốn

TheoMichael R. Wasserman, MD, California Association of Long Term Care Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 2 2025

Giảm cân ngoài ý muốn thường tiến triển trong vài tuần hoặc vài tháng. Đây có thể là dấu hiệu của tình trạng sức khỏe thể chất hoặc tinh thần đáng kể và có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong. Nguyên nhân của rối loạn có thể là rõ ràng (ví dụ, tiêu chảy mạn tính do hội chứng kém hấp thu) hoặc bị che lấp (ví dụ, một ung thư không được chẩn đoán).

Nguồn chủ đề

Bàn luận này tập trung vào những bệnh nhân giảm cân không có căn nguyên rõ ràng hơn là những người giảm cân theo hệ quả của rối loạn mạn tính được biết đến (ví dụ ung thư di căn, giai đoạn cuối của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính).

Giảm cân cần phải xem là vấn đề lâm sàng quan trọng nếu nó vượt quá 5% trọng lượng cơ thể hoặc 5 kg trong 6 tháng. Tuy nhiên, định nghĩa truyền thống này không phân biệt giữa giảm khối lượng cơ thể là nạc hay mỡ,điều đó có thể dẫn đến các kết quả rất khác nhau. Ngoài ra,sự tích tụ của phù (ví dụ, trong suy tim hoặc là bệnh thận mạn tính) có thể che lấp biểu hiệu lâm sàng quan trọng của việc giảm khối lượng cơ thể nạc.

Ngoài triệu chứng giảm cân, bệnh nhân có thể có các triệu chứng khác, chẳng hạn như biếng ăn, sốt, hoặc ra mồ hôi trộm về đêm, do rối loạn tiềm ẩn. Tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ nặng của tình trạng, các triệu chứng và dấu hiệu của thiếu dinh dưỡng (xem Tổng quan về vitamin) cũng có thể xuất hiện.

Tỷ lệ chung về tình trạng sụt cân không tự nguyện đáng kể là khoảng 5% mỗi năm ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh tăng theo tuổi tác, lên tới 20% ở nhóm người cao tuổi và lên tới 60% ở nhóm bệnh nhân viện dưỡng lão (1). Giảm cân không tự nguyện có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân và do nguyên nhân cụ thể (ví dụ: ung thư, bệnh tim mạch) (2).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Perera LAM, Chopra A, Shaw AL. Approach to Patients with Unintentional Weight Loss. Med Clin North Am. 2021;105(1):175-186. doi:10.1016/j.mcna.2020.08.019

  2. 2. Hussain SM, Newman AB, Beilin LJ, et al. Associations of Change in Body Size With All-Cause and Cause-Specific Mortality Among Healthy Older Adults. JAMA Netw Open. 2023;6(4):e237482. Xuất bản ngày 3 tháng 4 năm 2023. doi:10.1001/jamanetworkopen.2023.7482

Sinh lý bệnh của giảm cân không chủ ý

Kết quả giảm cân khi lượng calo tiêu hao nhiều hơn so với lượng calo thêm vào (ăn uống và hấp thụ). Những bệnh lý làm tăng chi tiêu hoặc giảm hấp thụ thường làm tăng cảm giác thèm ăn nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Thường gặp hơn, lượng calo thêm vào không đủ là cơ chế của giảm cân và nhóm bệnh nhân này có xu hướng có giảm sự thèm ăn. Đôi khi, có một vài cơ chế khác cũng được đề cập. Ví dụ: ung thư có xu hướng làm giảm cảm giác thèm ăn nhưng cũng làm tăng lượng calo tiêu thụ cơ bản thông qua cơ chế trung gian qua cytokine (xem thêm Con đường điều chỉnh lượng thức ăn nạp vào).

Nguyên nhân của giảm cân không chủ ý

Nhiều căn bệnh gây ra tình trạng sụt cân không tự nguyện, bao gồm hầu hết các bệnh mãn tính có mức độ nặng đủ lớn. Tuy nhiên, nhiều trong số này có biểu hiện lâm sàng rõ ràng và thường được chẩn đoán bởi thời điểm giảm cân xảy ra. Một số rối loạn khác cũng có thể biểu hiện giống như giảm cân không tự nguyện (xem bảng Một số Nguyên nhân Gây ra Triệu chứng Giảm Cân Không chủ ý).

Với tăng sự thèm ăn, các nguyên nhân tiềm ẩn phổ biến nhất gây giảm cân không tự nguyện là

Với giảm sự thèm ăn, các nguyên nhân tiềm ẩn phổ biến nhất gây giảm cân không tự nguyện là

Bảng
Bảng
Bảng
Bảng

Trong một số rối loạn gây giảm cân không tự nguyện, các triệu chứng khác có xu hướng nổi bật hơn, do đó giảm cân thường không phải triệu chứng chính. Dưới đây là các trường hợp được khuyến cáo:

  • Các bệnh viêm mạn tính: Viêm khớp dạng thấp nặng, xơ cứng bì toàn thân tiến triển

  • Bệnh đường tiêu hóa: Co thắt tâm vị, bệnh celiac, bệnh Crohn, viêm tụy mạn tính, bệnh lý tắc nghẽn thực quản, viêm đại tràng thiếu máu cục bộ, bệnh lý ruột do tiểu đường, bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm loét đại tràng (muộn)

  • Một số bệnh hấp thu: Phẫu thuật đường tiêu hoá và bệnh xơ nang

  • Bệnh tim và bệnh phổi mạn tính nặng: Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, suy tim (giai đoạn III hoặc IV), bệnh phổi thông khí hạn chế

  • Tình trạng sức khỏe tâm thần (đã biết và chưa được kiểm soát tốt): Lo lắng, rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, tâm thần phân liệt

  • Các rối loạn thần kinh: Xơ cứng cột bên teo cơ, sa sút trí tuệ, đa xơ cứng, nhược cơ, bệnh Parkinson, đột quỵ

  • Các vấn đề xã hội: Nghèo đói, cách ly xã hội

Với bệnh thận mạnsuy tim, tích tụ của phù có thể làm che lấp sự giảm trọng lượng cơ thể không bao gồm mỡ.

Đánh giá tình trạng giảm cân không chủ ý

Đánh giá tập trung vào việc phát hiện các nguyên nhân tiềm ẩn khác. Do có rất nhiều nguyên nhân nên việc đánh giá phải toàn diện (1).

Lịch sử

Bệnh sử của bệnh hiện mắc bao gồm các câu hỏi về số lượng và thời gian của quá trình giảm cân. Một báo cáo về giảm cân có thể không chính xác; do đó cần phải có bằng chứng xác nhận, chẳng hạn như số đo cân nặng trong hồ sơ y tế cũ, thay đổi kích thước quần áo hoặc xác nhận của các thành viên trong gia đình. Sự ngon miệng, thực phẩm ăn vào, nuốt, và tính chất phân nên được mô tả. Để đánh giá lặp lại, bệnh nhân nên giữ nhật ký ăn uống vì nhớ lại về lượng thức ăn ăn vào thì thường không chính xác. Các triệu chứng không đặc hiệu của nguyên nhân tiềm ẩn được ghi nhận, chẳng hạn như mệt mỏi, khó chịu, sốt và ra mồ hôi trộm về đêm.

Rà soát hệ thống phải được hoàn thiện,cần tìm kiếm các triệu chứng trong tất cả các hệ thống cơ quan lớn.

Tiền sử bệnh tật và tiền sử xã hội có thể tiết lộ căn bệnh có khả năng gây sụt cân. Cũng nên đề cập đến việc sử dụng thuốc theo đơn, thuốc mua tự do, thuốc giải trí và các sản phẩm thảo dược. Tiền sử xã hội có thể tiết lộ những thay đổi trong hoàn cảnh sống có thể giải thích tại sao lượng thức ăn nạp vào giảm (ví dụ: mất người thân, mất khả năng tự lập hoặc khả năng chuẩn bị bữa ăn, hoàn cảnh tài chính, mất thói quen ăn uống chung).

Khám thực thể

Các sinh hiệu có thể biểu hiện bằng sốt, nhịp tim nhanh, nhịp thở nhanh và hạ huyết áp. Cân nặng và chiều cao được đo và chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính toán; việc bổ sung phép đo vòng eo cho phép tính toán chỉ số độ tròn của cơ thể (BRI) (2). Đo độ dày nếp gấp da trên cơ tam đầu và chu vi giữa cánh tay có thể được đo để ước tính khối lượng nạc của cơ thể. BMI và ước tính khối lượng cơ thể nạc rất hữu ích cho việc phát hiện xu hướng tiến triển của tình trạng dinh dưỡng thông qua việc theo dõi dọc qua các lần khám tiếp theo.

Khám tổng quát nên đặc biệt toàn diện, bao gồm kiểm tra tim, phổi, bụng, đầu và cổ, vú, hệ thống thần kinh, trực tràng (bao gồm kiểm tra tuyến tiền liệt và xét nghiệm tìm hồng cầu trong phân), bộ phận sinh dục, gan, lá lách, hạch bạch huyết, khớp, da, tâm lý, và các yếu tố ảnh hưởng.

Các dấu hiệu cảnh báo

  • Sốt, đổ mồ hôi ban đêm,bệnh hạch bạch huyết toàn thể

  • Đau xương

  • Chứng khó thở, ho, ho ra máu

  • Nỗi sợ tăng cân không đúng mực ở thanh thiếu niên hoặc người trẻ tuổi

  • Chứng cuồng uống và đa niệu

  • Đau đầu, đau hàm khi nhai, và/hoặc rối loạn thị giác ở người lớn tuổi

  • Đốm Roth, tổn thương Janeway, các nốt Osler, xuất huyết dưới móng tay,huyết khối động mạch võng mạc

Giải thích các dấu hiệu

Giải thích một số dấu hiệu được liệt kê trong bảng Diễn giải các dấu hiệu được chọn trong giảm cân ngoài ý muốn. Những dấu hiệu bất thường cho thấy nguyên nhân gây sụt cân ở khoảng một nửa hoặc nhiều bệnh nhân, bao gồm cả những bệnh nhân cuối cùng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư.

Mặc dù nhiều rối loạn mạn tính có thể gây giảm cân, bác sĩ lâm sàng không được phỏng đoán quá nhanh rằng một rối loạn hiện có là nguyên nhân. Mặc dù bệnh lý hiện tại có thể là nguyên nhân gây ra bệnh ở những bệnh nhân có tình trạng bệnh không được kiểm soát tốt hoặc đang trầm trọng hơn, nhưng những bệnh nhân ổn định đột nhiên bắt đầu sụt cân mà không có tình trạng bệnh hiện tại xấu đi có thể đã phát triển một tình trạng bệnh mới (ví dụ: bệnh nhân bị viêm loét đại tràng ổn định có thể bắt đầu sụt cân vì họ bị ung thư đại tràng).

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Khi bệnh mạn tính ổn định, không được giả định rằng nó là nguyên nhân gây giảm cân cấp tính.

Bảng
Bảng

Xét nghiệm

Tầm soát ung thư phù hợp với độ tuổi (ví dụ: nội soi đại tràng, chụp nhũ ảnh) được chỉ định nếu chưa thực hiện trước đó. Các kiểm tra khác được thực hiện đối với các bệnh lý nghi ngờ dựa trên những dấu hiệu bất thường trong bệnh sử hoặc khi khám bệnh. Không có hướng dẫn nào được chấp thuận rộng rãi đối với những xét nghiệm thăm dò khác cho bệnh nhân mà không có những phát hiện bất thường như trên. Một cách tiếp cận được đề xuất là thực hiện các kiểm tra sau:

  • Chụp X-quang ngực

  • Phân tích nước tiểu

  • Tổng phân tích tế bào toàn phần

  • Tốc độ máu lắng (ESR) hoặc protein phản ứng C (CRP)

  • Xét nghiệm HIV

  • Hóa sinh máu (điện giải máu, canxi,chức năng gan thận)

  • Nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH)

Nếu trên các xét nghiệm này có kết quả bất thường thì cần chỉ định thêm xét nghiệm bổ sung.

Nếu tất cả kết quả xét nghiệm là bình thường và các kết quả lâm sàng là bình thường thì không khuyến cáo nên thử nghiệm rộng rãi hơn (ví dụ,CT, MRI). Xét nghiệm như vậy có kết quả rất hạn chế và nếu có bất thường thì đó chỉ là phát hiện ngẫu nhiên, không liên quan với tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Những bệnh nhân này cần được hướng dẫn cách đảm bảo lượng calo nạp vào cơ thể đầy đủ và được đánh giá lại sau khoảng 1 tháng, bao gồm cả việc đo cân nặng. Việc giới thiệu đến chuyên gia dinh dưỡng sẽ là giải pháp phù hợp. Nếu bệnh nhân tiếp tục giảm cân, nên khám lại và hỏi kỹ lại tiền sử và khám xét toàn thể vì bệnh nhân có thể chia sẻ thông tin quan trọng mà trước đó chưa được tiết lộ,những thông tin mới và những bất thường của cơ thể tiềm ẩn có thể được phát hiện ở lần khám sau. Nếu cân nặng tiếp tục giảm và tất cả các kết quả khác vẫn bình thường, cần phải xem xét thêm các xét nghiệm khác (ví dụ CT, MRI).

Tài liệu tham khảo đánh giá

  1. 1. Gaddey HL, Holder KK. Unintentional Weight Loss in Older Adults. Am Fam Physician. 2021;104(1):34-40.

  2. 2. Zhang X, Ma N, Lin Q, et al. Body Roundness Index and All-Cause Mortality Among US Adults [published correction appears in JAMA Netw Open. Ngày 1 tháng 7 năm 2024;7(7):e2426540. doi: 10.1001/jamanetworkopen.2024.26540]. JAMA Netw Open. 2024;7(6):e2415051. Xuất bản ngày 3 tháng 6 năm 2024. doi:10.1001/jamanetworkopen.2024.15051

Điều trị giảm cân không chủ ý

Rối loạn cơ bản được điều trị.

Nếu một bệnh nền gây ra tình trạng suy dinh dưỡng và khó điều trị, cần cân nhắc hỗ trợ dinh dưỡng bổ sung. Các biện pháp hành vi chung hữu ích bao gồm khuyến khích bệnh nhân ăn, hỗ trợ họ ăn, cung cấp đồ ăn nhẹ giữa các bữa ăn và trước khi đi ngủ, cung cấp thức ăn yêu thích hoặc có hương vị đậm đà và chỉ cho ăn những phần nhỏ trong mỗi lần ngồi ăn.

Nếu các biện pháp hành vi không có hiệu quả và giảm cân quá mức, có thể thử dùng sonde dạ dày nếu bệnh nhân có đường tiêu hóa hoạt động bình thường.

Các phép đo khối lượng cơ thể nạc cần được thực hiện theo dõi liên tục sau đó.

Thuốc kích thích cảm giác thèm ăn không được chứng minh là có thể kéo dài tuổi thọ ở bệnh nhân ung thư (1).

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Childs DS, Jatoi A. A hunger for hunger: a review of palliative therapies for cancer-associated anorexia. Ann Palliat Med. 2019;8(1):50-58. doi:10.21037/apm.2018.05.08

Các điểm thiết yếu ở người cao tuổi: Giảm cân ngoài ý muốn

Các thay đổi liên quan đến tuổi tác bình thường có thể góp phần làm giảm cân bao gồm:

  • Giảm độ nhạy cảm với một số thuốc trung gian kích thích cảm giác thèm ăn (ví dụ: orexin, ghrelin, neuropeptide Y) và tăng độ nhạy cảm với một số thuốc trung gian ức chế (ví dụ: cholecystokinin, serotonin, yếu tố giải phóng corticotropin)

  • Giảm tỷ lệ làm sạch dạ dày (cảm giác no kéo dài)

  • Giảm độ nhậy cảm với hương vị và mùi

  • Mất khối cơ (sarcopenia)

Ở người cao tuổi, nhiều bệnh mạn tính thường dẫn đến sụt cân. Các vấn đề về răng miệng (ví dụ: viêm nha chu) trở nên phổ biến hơn khi lão hóa và có thể ảnh hưởng đến việc hấp thụ và tiêu hóa chất dinh dưỡng. Sự cách ly xã hội có xu hướng làm giảm lượng thức ăn ăn vào. Đặc biệt ở nhóm bệnh nhân được chăm sóc điều dưỡng tại nhà, trầm cảm là một yếu tố góp phần rất thường gặp. Thật khó để phân loại chính xác sự đóng góp của các yếu tố cụ thể do sự tương tác giữa các yếu tố như trầm cảm, mất chức năng, thuốc men, chứng khó nuốt, chứng mất trí và cô lập xã hội.

Khi đánh giá người cao tuổi bị sụt cân, danh sách kiểm tra hữu ích là các yếu tố có thể góp phần gây ra tình trạng này bắt đầu bằng chữ D:

  • Nha khoa

  • Sa sút trí tuệ

  • Trầm cảm

  • Bệnh tiêu chảy

  • Các rối loạn (ví dụ, rối loạn thận, tim hoặc phổi nghiêm trọng)

  • Thuốc

  • Rối loạn chức năng

  • Rối loạn vị giác

  • Khó nuốt

Người cao tuổi bị sụt cân nên được đánh giá tình trạng thiếu hụt vitamin Dthiếu hụt vitamin B12.

Nuôi ăn qua đường tiêu hóa (ống) hiếm khi có lợi ở người cao tuổi, ngoại trừ một số bệnh nhân mà cách nuôi ăn này có thể chỉ là giải pháp tạm thời để chuyển sang chế độ ăn uống bình thường.

Những điểm chính

  • Có nhiều yếu tố thường góp phần gây ra tình trạng sụt cân, đặc biệt là ở những bệnh nhân tại viện dưỡng lão.

  • Giảm cân không chủ ý > 5% trọng lượng cơ thể hoặc 5 kg cần xem xét.

  • Các khía cạnh mang lại hiệu quả cao nhất của quá trình đánh giá là tìm hiểu bệnh sử và khám thực thể toàn diện.

  • Chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hoặc các xét nghiệm mở rộng khác thường không được khuyến cáo trừ khi được gợi ý bằng các phát hiện lâm sàng.

  • Nhấn mạnh các biện pháp hành vi khuyến khích ăn uống và cố gắng tránh nuôi ăn qua đường ruột, đặc biệt là ở người cao tuổi.