Rối loạn nhân cách hoang tưởng được đặc trưng bởi một dạng phổ biến của mất lòng tin và nghi ngờ không chính đáng đối với người khác, liên quan đến việc giải thích động cơ của họ là ác ý. Chẩn đoán theo tiêu chuẩn lâm sàng. Điều trị bằng liệu pháp nhận thức-hành vi và đôi khi dùng thuốc.
(Xem thêm Tổng quan về các Rối loạn nhân cách.)
Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách hoang tưởng không tin tưởng vào người khác và cho rằng những người khác có ý định làm hại hoặc đánh lừa họ, ngay cả khi họ không có hoặc không đủ sự biện minh cho những cảm giác này.
Tỷ lệ lưu hành trung vị ước tính là 3,2% nhưng có thể cao tới 4,4% (1, 2). Nó được cho là phổ biến hơn ở nam giới.
Có một số bằng chứng về sự gia tăng tỷ lệ trong gia đình. Một số bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa rối loạn này và sự lạm dụng tình cảm và/hoặc thể chất và sự đối xử tàn nhẫn trong thời thơ ấu.
Bệnh lý đồng diễn là phổ biến. Rối loạn nhân cách hoang tưởng hiếm khi được chẩn đoán đơn độc. Các bệnh đi kèm thường gặp bao gồm rối loạn suy nghĩ (ví dụ: tâm thần phân liệt), rối loạn lo âu (ví dụ: ám ảnh sợ xã hội [rối loạn lo âu xã hội]), rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn sử dụng rượu và rối loạn nhân cách khác (ví dụ: rối loạn nhân cách ranh giới).
Tài liệu tham khảo chung
1. Grant BF, Hasin DS, Stinson FS, et al: Prevalence, correlates, and disability of personality disorders in the United States: Results from the national epidemiologic survey on alcohol and related conditions. J Clin Psychiatry 65(7):948-958, 2004. doi: 10.4088/jcp.v65n0711
2. Morgan TA, Zimmerman M: Epidemiology of personality disorders. In Handbook of Personality Disorders: Theory, Research, and Treatment. 2nd ed, edited by WJ Livesley, R Larstone, New York, NY: The Guilford Press, 2018, pp. 173-196.
Triệu chứng và dấu hiệu của rối loạn nhân cách hoang tưởng
Bệnh nhân bị rối loạn nhân cách hoang tưởng nghi ngờ rằng những người khác đang có kế hoạch khai thác, đánh lừa hoặc làm hại họ. Họ cảm thấy rằng họ có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và không có lý do. Mặc dù có ít hoặc không có bằng chứng, nhưng họ vẫn dai dẳng duy trì những nghi ngờ và suy nghĩ của họ.
Thông thường, những bệnh nhân này nghĩ rằng những người khác có nhiều ý định làm tổn thương họ. Họ luôn cảnh giác với những lời phỉ báng tiềm tàng, sự coi thường, những mối đe dọa, và sự không trung thành và tìm kiếm những ý nghĩa ẩn trong nhận xét và hành động. Họ xem xét kỹ lưỡng những người khác để tìm kiếm bằng chứng ủng hộ những nghi ngờ của họ. Ví dụ, họ có thể giải thích sai một lời đề nghị giúp đỡ như hàm ý rằng họ không thể tự thực hiện nhiệm vụ. Nếu họ nghĩ rằng họ đã bị sỉ vả hoặc bị tổn thương bằng bất kỳ cách nào, họ sẽ không tha thứ cho người đã làm tổn thương họ. Họ có xu hướng phản công hoặc trở nên giận dữ khi phản ứng với những điều mà họ nghĩ là bị làm tổn thương. Bởi vì họ không tin tưởng vào người khác, họ cảm thấy cần sự tự trị và trong tầm kiểm soát.
Những bệnh nhân này do dự để tin tưởng hoặc phát triển mối quan hệ gần gũi với người khác vì họ lo lắng rằng thông tin có thể được sử dụng để chống lại họ. Họ nghi ngờ lòng trung thành của bạn bè và sự trung thành của vợ/chồng hoặc bạn tình của họ. Họ có thể rất ghen và có thể liên tục đặt câu hỏi về các hoạt động và động cơ của vợ/chồng hoặc bạn tình của họ trong nỗ lực để biện minh cho tính ghen tuông của họ.
Bệnh nhân mắc chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng thường gặp khó khăn trong các mối quan hệ giữa các cá nhân. Khi những người khác phản ứng tiêu cực với họ, họ lấy những phản ứng này như là xác nhận những nghi ngờ ban đầu của họ.
Chẩn đoán rối loạn nhân cách hoang tưởng
Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, tái bản lần thứ 5, Tiêu chuẩn sửa đổi văn bản (DSM-5-TR)
Để chẩn đoán rối loạn nhân cách hoang tưởng (1), bệnh nhân phải có
Không tin tưởng và nghi ngờ người khác
Tình trạng không tin tưởng và nghi ngờ này được thể hiện qua sự hiện diện của ≥ 4 trong số những điều sau đây (1):
Những nghi ngờ không có lý lẽ rằng những người khác đang khai thác, làm tổn thương hoặc lừa dối họ
Sự bận tâm với những nghi ngờ không có căn cứ về độ tin cậy của bạn bè và đồng nghiệp của họ
Sự miễn cưỡng tin tưởng người khác vì sợ rằng thông tin được sử dụng chống lại họ
Giải thích sai những nhận xét hoặc sự kiện ôn hòa là có ý làm giảm giá trị, thù địch, hoặc đe dọa tiềm ẩn
Giữ những thù hận vì những lời xúc phạm, sự làm tổn thương, hoặc sự coi thường
Sẵn sàng nghĩ rằng tính cách hoặc danh tiếng của họ đã bị tấn công và nhanh chóng phản ứng giận dữ hoặc phản công
Những nghi ngờ thường xuyên, không hợp lý rằng vợ/chồng hoặc bạn tình của họ không chung thủy
Ngoài ra, các triệu chứng phải bắt đầu từ giai đoạn sớm của thời kì trưởng thành.
Chẩn đoán phân biệt
Các bác sĩ lâm sàng có thể phân biệt rối loạn nhân cách hoang tưởng với những rối loạn nhân cách khác bởi sự lan tỏa những hoang tưởng đối với những người khác (ví dụ như trái ngược với hoang tưởng tạm thời của nhân cách ranh giới) bởi đặc điểm cốt lõi của mỗi rối loạn:
Rối loạn nhân cách phân liệt: Không quan tâm (như trái ngược với sự không tin tưởng trong hoang tưởng)
Rối loạn nhân cách loại phân liệt: Ý tưởng, lời nói và hành vi kì quặc
Rối loạn nhân cách ranh giới: Sự phụ thuộc
Rối loạn nhân cách ái kỷ: Sự tự cao
Rối loạn nhân cách chống đối xã hội: Sự bóc lột
Rối loạn nhân cách né tránh: Lo sợ bị từ chối
Rối loạn nhân cách hoang tưởng có thể được phân biệt với rối loạn hoang tưởng (loại hoang tưởng bị hại), bệnh tâm thần phân liệt và rối loạn trầm cảm hoặc rối loạn lưỡng cực các đặc trưng loạn thần bởi vì trong những rối loạn này, các giai đoạn triệu chứng loạn thần (hoang tưởng, ảo giác) là nổi bật.
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. American Psychiatric Association: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th ed, Text Revision (DSM-5-TR). Washington, DC, American Psychiatric Association, 2022, pp 737-741.
Điều trị rối loạn nhân cách hoang tưởng
Liệu pháp nhận thức-hành vi
Đôi khi dùng các loại thuốc giảm đau
Nguyên tắc chung trong điều trị rối loạn nhân cách hoang tưởng cũng giống như nguyên tắc điều trị cho tất cả các rối loạn nhân cách.
Không có phương pháp điều trị nào được chứng minh có hiệu quả đối với rối loạn nhân cách hoang tưởng.
Mức độ cao của sự nghi ngờ và không tin tưởng của bệnh nhân khiến việc thiết lập mối quan hệ gặp phải khó khăn. Thể hiện sự thừa nhận bất kỳ giá trị nào trong sự nghi ngờ của bệnh nhân có thể tạo điều kiện cho một mối quan hệ giữa bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng. Liên minh này sau đó có thể cho phép bệnh nhân tham gia liệu pháp nhận thức-hành vi hoặc sẵn sàng dùng bất kỳ loại thuốc nào (ví dụ: thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần không điển hình) được kê đơn để điều trị các triệu chứng cụ thể. Thuốc chống loạn thần không điển hình (thế hệ 2) có thể giúp giảm lo lắng (1) mặc dù chưa có nghiên cứu đối chứng giả dược nào chứng minh được hiệu quả.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Birkeland SF: Psychopharmacological treatment and course in paranoid personality disorder: A case series. Int Clin Psychopharmacol 28(5):283-285, 2013. doi: 10.1097/YIC.0b013e328363f676