Teo cơ tủy (SMAs)

TheoMichael Rubin, MDCM, New York Presbyterian Hospital-Cornell Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 3 2024

Teo cơ tủy bao gồm một vài loại bệnh lý di truyền, đặc trưng bởi yếu cơ xương do quá trình thoái hóa của tế bào sừng trước tủy sống và các nhân vận động vùng thân não. Các biểu hiện có thể bắt đầu ở thời kì sơ sinh hoặc trẻ nhỏ. Chúng bao gồm nhiều dạng đặc trưng khác nhau và có thể bao gồm giảm trương lực cơ, giảm phản xạ gân xương; khó bú mút, khó nuốt, và khó thở; các mốc phát triển không bình thường, và trong một số thể nặng sẽ tử vong rất sớm. Chẩn đoán bằng xét nghiệm di truyền. Điều trị là hỗ trợ.

Teo cơ tủy sống thường là do đột biến lặn trên nhiễm sắc thể thường ảnh hưởng đến gen neuron vận động sống sót 1 (SMN1) trên nhánh dài của nhiễm sắc thể số 5, thường gây mất đoạn đồng hợp tử của exon 7. Teo cơ cột sống có thể liên quan đến hệ thần kinh trung ương và do đó không hoàn toàn là bệnh hệ thần kinh ngoại biên. SMN2 là một gen sửa đổi; nó giống gen SMN1 đến 99% và nằm trên 5q; nếu xuất hiện ở nhiều bản sao, SMN2 có thể sửa đổi mức độ nặng của bệnh và giải thích sự khác biệt về kiểu hình giữa những đứa trẻ mắc bệnh SMA. Ngoài ra, có những dạng SMA hiếm gặp mà không phải do đột biến 5q.

Có 5 loại teo cơ cột sống chính.

Trong bệnh teo cơ tủy sống loại 0, khởi phát là trước khi sinh; nó biểu hiện như giảm chuyển động của thai nhi vào cuối thai kỳ và yếu cơ nặng và giảm trương lực khi sinh. Trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng bị liệt nửa mặt, liệt cơ, dị tật tim, và đôi khi mắc chứng co cứng khớp. Tử vong do suy hô hấp xảy ra trong vòng 6 tháng đầu.

Teo cơ tủy sống loại 1 (teo cơ tủy ở trẻ sơ sinh, hoặc bệnh Werdnig-Hoffmann) cũng xuất hiện trong tử cung và có triệu chứng vào khoảng 6 tháng tuổi. Trẻ mắc bệnh có giảm trương lực cơ (thường phát hiện khi sinh), giảm phản xạ, co giật vào teo cơ lưỡi, khó khăn khi phát âm, nuốt và cuối cùng là thở. Tử vong, thường là do suy hô hấp, xảy ra trong năm đầu tiên chiếm 95% và 100% khi 4 tuổi.

Trong bệnh teo cơ tủy sống týp 2 (dạng trung bình hoặc bệnh Dubowitz), các triệu chứng thường biểu hiện ở độ tuổi từ 3 tháng đến 15 tháng tuổi; < 25% số trẻ em bị ảnh hưởng học cách ngồi và không biết đi hoặc bò. Trẻ em có liệt mềm cơ, co giật cơ nhỏ và teo cơ, các biểu hiện này có thể khó quan sát thấy ở trẻ nhỏ. Mất phản xạ gân xương. Có thể biểu hiện triệu chứng khó nuốt. Hầu hết trẻ em phải ngồi xe lăn trong khoảng từ 2 đến 3 tuổi. Những bệnh lý này thường gây tử vong trong giai đoạn đầu đời, thường do các biến chứng hô hấp. Tuy nhiên, tiến triển có thể ngưng tự phát, để lại di chứng vĩnh viễn, yếu cơ không tiến triển và có nguy cơ cao mắc chứng vẹo cột sống nghiêm trọng cùng các biến chứng của nó.

Teo cơ tủy sống loại 3 (dạng vị thành niên, hoặc bệnh Wohlfart-Kugelberg-Welander) thường biểu hiện ở độ tuổi từ 15 tháng đến 19 tuổi. Triệu chứng tương tự với loại I, nhưng tiến triển chậm hơn và tuổi thọ dài hơn; một số bệnh nhân có tuổi thọ bình thường. Một số trường hợp do khiếm khuyết enzym đặc hiệu thứ phát (ví dụ, thiếu hụt hexosaminidase). Liệt đối xứng và tiến triển từ gốc đến ngọn và rõ nhất ở chân, bắt đầu từ các cơ tứ đầu và các cơ hông. Muộn hơn, cánh tay bị ảnh hưởng. Tuổi thọ phụ thuộc vào sự tiến triển biến chứng về hô hấp.

Teo cơ tủy sống loại 4 (khởi phát muộn) có thể là gen lặn, gen trội hoặc liên kết X, khởi phát ở người trưởng thành (từ 30 đến 60 tuổi) và tiến triển chậm của chủ yếu là yếu cơ và hao mòn cơ đầu gần. Có thể khó phân biệt bệnh lý này với xơ cứng cột bên teo cơ liên quan đến các nơ-ron vận động dưới.

Chẩn đoán teo cơ tủy sống

  • Xét nghiệm điện sinh lý để chẩn đoán

  • Xét nghiệm di truyền

Nghĩ đến chẩn đoán teo cơ tủy ở những bệnh nhân yếu cơ không rõ nguyên nhân, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Nên tiến hành làm điện cơ và đo tốc độ dẫn truyền thần kinh; gồm cả các cơ chi phối bởi dây thần kinh sọ não. Tốc độ dẫn truyền bình thường, nhưng các cơ bị ảnh thường mất phân bố thần kinh mà không có biểu hiện lâm sâng.

Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm di truyền, phát hiện đột biến gây ra bệnh ở khoảng 95% số bệnh nhân (1).

Sinh thiết cơ đôi khi được thực hiện để loại trừ các nguyên nhân có thể điều trị và để xác định nguyên nhân gây tử vong. Có thể tăng nhẹ các enzyme huyết thanh (ví dụ, CK, aldolase).

Chỉ định chọc ối để chẩn đoán bệnh nếu có tiền sử gia đình.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Ogino S, Wilson RB: Genetic testing and risk assessment for spinal muscular atrophy (SMA). Hum Genet 111 (6):477–500, 2002. doi: 10.1007/s00439-002-0828-x

Điều trị teo cơ tủy sống

  • Chăm sóc hỗ trợ

  • Các liệu pháp dựa trên gen (nusinersen, onasemnogene abeparvovec-xioi hoặc risdiplam)

Bệnh không thể chữa khỏi. Điều trị teo cơ cột sống bao gồm các biện pháp hỗ trợ.

Vật lý trị liệu, nẹp, và các thiết bị đặc biệt làm dừng hoặc tiến triển chậm bệnh bằng cách ngăn chặn vẹo cột sống và co cứng. Các thiết bị thích nghi thông qua tư vấn của các chuyên gia vật lý trị liệu và hoạt động trị liệu giúp cải thiện khả năng tự chăm sóc bản thân của trẻ, bằng cách cho phép chúng ăn, viết, hoặc sử dụng máy tính.

Nusinersen là một oligonucleotide antisense điều chỉnh sự ghép nối RNA tiền truyền tin của gen tế bào thần kinh vận động sống sót 2 (SMN2); nusinersen có thể cải thiện nhẹ chức năng vận động và trì hoãn tình trạng tàn tật và tử vong (1). Thuốc phải được tiêm vào nội tủy mạc.

Onasemnogene abeparvovec-xioi có thể được sử dụng để điều trị cho trẻ em < 2 tuổi và có đột biến gen hai alen trong bệnh SMN1. Onasemnogene abeparvovec-xioi sử dụng vectơ có nguồn gốc từ adenovirus để đưa gen SMN hoạt động đến các tế bào thần kinh vận động. Một liều thuốc duy nhất được tiêm trong hơn 1 giờ bằng cách truyền theo đường tĩnh mạch. Trong một nghiên cứu với 15 trẻ em, một số trẻ đã đạt được các mốc vận động quan trọng, bao gồm ngồi không cần trợ giúp, ăn bằng miệng, lăn và đi độc lập (2). Tổn thương gan nghiêm trọng là một nguy cơ tiềm ẩn.

Risdiplam, một thuốc điều chỉnh tiếp nối của neuron vận động 2 (SMN2), có thể được sử dụng để điều trị chứng teo cơ tủy sống ở bệnh nhân ≥ 2 tháng tuổi. Thuốc được cho dùng dưới dạng lỏng theo đường uống hoặc qua ống truyền dinh dưỡng mỗi ngày một lần (3). Sốt, tiêu chảy và phát ban là những tác dụng bất lợi thường gặp nhất.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Pechmann A, Behrens M, Dörnbrack K, et al: Effect of nusinersen on motor, respiratory and bulbar function in early-onset spinal muscular atrophy. Brain 146 (2):668–677, 2023 doi: 10.1093/brain/awac252

  2. 2. Mendell JR,, Al-Zaidy S, Shell R, et al: Single-dose gene-replacement therapy for spinal muscular atrophy. N Engl J Med 377 (18):1713–1722, 2017. doi: 10.1056/NEJMoa1706198

  3. 3. Baranello G, Servais L, Day J, et al: P.353FIREFISH Part 1: 16-month safety and exploratory outcomes of risdiplam (RG7916) treatment in infants with type 1 spinal muscular atrophy. Neuromuscul Disord 29 (supplement 1):S184, 2019, doi: https://doi.org/10.1016/j.nmd.2019.06.515

Những điểm chính

  • Nghi ngờ teo cơ tủy nếu trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ xuất hiện yếu cơ không rõ nguyên nhân.

  • Điện cơ cho thấy sự mất phân bố thần kinh.

  • Xét nghiệm di truyền để chẩn đoán xác định bệnh và tuýp teo cơ tủy.

  • Giới thiệu bệnh nhân đến các chuyên gia vật lý trị liệu và hoạt động trị liệu, những người có thể giúp bệnh nhân học cách tự lập hơn.

  • Nusinersen, onasemnogene, hoặc risdiplam có thể cải thiện một chút chức năng vận động và trì hoãn tình trạng tàn tật và tử vong.