Tổng quan về cấp cứu nha khoa

TheoJohn Safar, DDS, MAGD, ABGD, Texas A&M University College of Dentistry
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 11 2024

    Khi bác sĩ răng hàm mặt không có mặt, cấp cứu nha khoa được xử lý bởi nhân viên y tế trong các trường hợp sau:

    Nhiễm trùng răng

    Bệnh nhân bị nhiễm trùng răng thường đến cấp cứu vì triệu chứng ban đầu là đau. Nhiễm trùng răng có thể bao gồm viêm tủy (viêm mô tủy răng thường do nhiễm trùng do vi khuẩn), hoại tử tủy (tủy răng bị hoại tử) với tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn lan sang các mô xung quanh, áp xe chóp cấp tính tại chỗ (sưng bất thường ở mô mềm xung quanh hàm), sưng nướu quanh răng có dịch mủ chảy ra hoặc sâu răng lớn.

    Không cần phải có phim chụp X-quang răng trong các trường hợp khẩn cấp, nhưng có thể sử dụng nếu có thể để xem tình trạng nhiễm trùng lan rộng đến xương hàm dưới hoặc xương hàm trên. Bệnh nhân có biểu hiện đau và/hoặc nhiễm trùng nên được chuyển đến nha sĩ vào ngày hôm sau hoặc sớm hơn. Nếu không thể đến nha sĩ ngay lập tức, bệnh nhân cần được theo dõi về y tế cho đến khi có thể sắp xếp được cuộc hẹn.

    Giảm đau và điều trị nhiễm trùng răng

    Thuốc giảm đau đường uống, có hiệu quả đối với hầu hết các vấn đề về răng, bao gồm acetaminophen 650 mg đến 1000 mg, 6 giờ một lần và thuốc chống viêm không steroid (NSAID) như ibuprofen 400 mg đến 800 mg, 6 giờ một lần. Ibuprofen và acetaminophen cũng có thể được sử dụng cùng nhau trong thời gian ngắn và thay thế, 3 giờ một lần. Đối với đau dữ dội, những loại thuốc này có thể được phối hợp với thuốc opioid như codeine, hydrocodone hoặc oxycodone.

    Cần phải chăm sóc răng miệng toàn diện (ví dụ: cắt tủy, lấy tủy, điều trị tủy không phẫu thuật hoặc rạch và dẫn lưu). Tuy nhiên, nên dùng thuốc kháng sinh nếu bệnh nhân có các triệu chứng toàn thân (ví dụ: sốt) hoặc các dấu hiệu của áp xe tại chỗ đã lan sang các mô xung quanh gây sưng tấy tại chỗ và/hoặc nổi hạch.

    Thuốc kháng sinh thích hợp trong điều trị nhiễm trùng răng bao gồm amoxicillin 500 mg uống, 8 giờ một lần trong 3 ngày đến 7 ngày hoặc penicillin VK 500 mg uống, 6 giờ một lần trong 3 ngày đến 7 ngày. Thời gian điều trị bằng kháng sinh phụ thuộc vào mức đáp ứng lâm sàng (1). Bệnh nhân có thể được hướng dẫn ngừng dùng kháng sinh 24 giờ sau khi hết các dấu hiệu và triệu chứng, do không có bằng chứng rõ ràng nào cho thấy việc rút ngắn thời gian dùng kháng sinh góp phần gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Bệnh nhân cần được đánh giá lại sau 3 ngày để đánh giá mức độ thuyên giảm hoặc mức độ cải thiện các triệu chứng.

    Bệnh nhân không đáp ứng với amoxicillin hoặc penicillin có thể chuyển sang dùng amoxicillin-clavulanate 500/125 mg 3 lần/ngày trong 7 ngày (1).

    Ở những bệnh nhân nhạy cảm hoặc dị ứng với penicillin hoặc các thuốc tương tự, azithromycin được khuyến nghị dùng với liều tấn công ban đầu là 500 mg, sau đó dùng liều 250 mg trong 4 ngày. Ngoài ra, có thể kê đơn clindamycin 300 mg uống, 6 giờ một lần trong 3 đến 7 ngày. Bệnh nhân cần được theo dõi khả năng kháng azithromycin và các triệu chứng nhiễm Clostridium difficile với clindamycin. Nên dùng thêm Metronidazole 500 mg 3 lần/ngày trong 7 ngày phối hợp với azithromycin hoặc clindamycin nếu phác đồ ban đầu không đáp ứng đầy đủ.

    Kháng sinh dự phòng

    Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ (ADA) (2) và Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (3) đều khuyến nghị dùng kháng sinh dự phòng để phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm trùng ở những bệnh nhân có các thủ thuật nha khoa bị hoặc đã bị bất kỳ tình trạng nào sau đây (2, 3):

    • Van tim nhân tạo, bao gồm van tim cấy ghép qua ống thông hoặc van tim sử dụng vật liệu nhân tạo để phục hồi van tim

    • Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

    • Các bệnh tim bẩm sinh cụ thể (CHD) (ví dụ: CHD chưa được phục hồi, CHD đã được phục hồi bằng vật liệu nhân tạo)

    • Bệnh van tim sau khi cấy ghép tim

    Đối với những bệnh nhân có cấy ghép khớp giả, hướng dẫn của ADA (2) nêu rõ rằng thuốc kháng sinh dự phòng thường không được khuyến nghị. Tuy nhiên, có thể có một phân nhóm bệnh nhân cần dùng thuốc kháng sinh (ví dụ: bệnh nhân có tiền sử nhiễm trùng khớp đang thực hiện thủ thuật liên quan đến rạch nướu).

    Những can thiệp nha khoa cần phải dự phòng là những thủ thuật đòi hỏi thao tác hoặc rạch trên lợi, niêm mạc miệng hoặc các thủ thuật liên quan đến vùng chóp răng (những thủ thuật này có nguy cơ gây nhiễm khuẩn huyết nhất). Thuốc được ưu tiên sử dụng là amoxicillin 2 g uống một lần trước khi tiến hành thủ thuật từ 30 phút đến 60 phút. Đối với những người không thể dung nạp penicillin, các lựa chọn thay thế bao gồm cephalexin 2 g, azithromycin hoặc clarithromycin 500 mg, hoặc doxycycline 100 mg. Tất cả các lựa chọn thay thế này cũng được dùng một lần bằng đường uống từ 30 đến 60 phút trước khi làm thủ thuật. Clindamycin không còn được khuyến nghị để điều trị dự phòng.

    Tài liệu tham khảo

    1. 1. Lockhart PB, Tampi MP, Abt E, et al. Evidence-based clinical practice guideline on antibiotic use for the urgent management of pulpal- and periapical-related dental pain and intraoral swelling: A report from the American Dental Association. J Am Dent Assoc. 150(11):906-921.e12, 2019. doi: 10.1016/j.adaj.2019.08.020

    2. 2. Sollecito TP, Abt E, Lockhart PB, et al. The use of prophylactic antibiotics prior to dental procedures in patients with prosthetic joints: Evidence-based clinical practice guideline for dental practitioners--a report of the American Dental Association Council on Scientific Affairs. J Am Dent Assoc. 2015;146(1):11-16.e8. doi:10.1016/j.adaj.2014.11.012

    3. 3. Wilson WR, Gewitz M, Lockhart PB, et al. Prevention of viridans group streptococcal infective endocarditis: A scientific statement from the American Heart Association. Circulation. 143(20):e963-978, 2021.  DOI: 10.1161/CIR.0000000000000969