Bệnh tăng nhãn áp góc đóng

(bệnh tăng nhãn áp góc đóng)

TheoDouglas J. Rhee, MD, University Hospitals/Case Western Reserve University
Xem xét bởiSunir J. Garg, MD, FACS, Thomas Jefferson University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 3 2025

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng liên quan đến tình trạng đóng của góc tiền phòng, có thể là mạn tính hoặc cấp tính (hiếm gặp). Các triệu chứng của góc đóng cấp tính là đau và đỏ mắt, thị lực giảm, nhìn thấy quần màu, nhức đầu, buồn nôn, và nôn. Nhãn áp (IOP) tăng. Cần điều trị ngay tình trạng cấp tính bằng nhiều loại thuốc tại chỗ và toàn thân để ngăn ngừa mất thị lực vĩnh viễn, sau đó là điều trị dứt điểm, thủ thuật rạch mống mắt.

Nguồn chủ đề

(Xem thêm Tổng quan về bệnh tăng nhãn áp.)

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng chiếm khoảng 10% tổng số bệnh tăng nhãn áp ở Hoa Kỳ (1).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Quigley HA, Vitale S. Models of open-angle glaucoma prevalence and incidence in the United States. Invest Ophthalmol Vis Sci. 1997;38(1):83-91.

Căn nguyên của bệnh tăng nhãn áp góc đóng

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng do các yếu tố kéo hoặc đẩy mống mắt lên trên góc (nghĩa là chỗ nối của mống mắt và giác mạc ở phần ngoại vi của tiền phòng), ngăn cản sự thoát nước và tăng nhãn áp (IOP) gây ra (xem bảng Bệnh tăng nhãn áp góc đóng). Nhãn áp tăng cao gây tổn thương thần kinh thị giác.

Sinh lý bệnh của bệnh tăng nhãn áp góc đóng

Đóng góc có thể là nguyên phát (chưa rõ nguyên nhân) hoặc thứ phát sau một tình trạng khác và có thể cấp tính, bán cấp (không liên tục) hoặc mạn tính.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng nguyên phát

Góc hẹp không biểu hiện ở những người trẻ tuổi. Thủy tinh thể liên tục tăng kích thước theo tuổi. Trong một số trường hợp, thủy tinh thể tăng kích thước đẩy mống mắt về phía trước gây hẹp góc. Các yếu tố nguy cơ phát sinh góc hẹp bao gồm tiền sử gia đình, tuổi cao và chủng tộc; nguy cơ cao hơn ở quần thể người châu Á và người Inuit và thấp hơn ở quần thể người châu Âu và người châu Phi.

Ở những người có cơ địa góc hẹp, khoảng cách giữa mống mắt quanh đồng tử và thủy tinh thể cũng rất hẹp. Khi mống mắt giãn ra, các lực kéo mống mắt về phía trung tâm và phía sau, khiến mống mắt tiếp xúc nhiều hơn với thủy tinh thể, ngăn không cho dịch thủy dịch đi qua giữa thủy tinh thể và mống mắt, qua đồng tử và vào tiền phòng (cơ chế này được gọi là chẹn đồng tử). Đồng tử nghẽn trong khi thủy dịch vẫn tiếp tục được tiết ra sẽ quẩn ở hậu phòng làm tăng áp lực đẩy mống mắt về phía trước gây đóng góc. Tình trạng đóng này ngăn chặn dòng chảy của dịch thủy dịch, dẫn đến tăng nhanh (trong vòng vài giờ) và tăng nghiêm trọng (> 40 mm Hg) nhãn áp (IOP). Các cơ chế chặn không phải đồng tử bao gồm hội chứng mống mắt cao nguyên, trong đó tiền phòng trung tâm sâu nhưng tiền phòng ngoại vi bị nông do thể mi bị dịch chuyển về phía trước.

Cần phải nhân biết và điều trị bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính ngay lập tức vì thị lực có thể bị mất nhanh chóng và vĩnh viễn.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng không liên tục xảy ra nếu giai đoạn tắc đồng tử tự khỏi sau vài giờ, thường là sau khi ngủ ở tư thế nằm ngửa.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính xảy ra nếu góc hẹp dần dần, tạo ra sẹo giữa mống mắt ngoại vi và vùng bè; nhãn áp tăng chậm.

Giãn đồng tử có thể đẩy mống mắt vào góc và gây ra bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính ở bất kỳ người nào có góc hẹp.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng thứ phát

Ở bệnh tăng nhãn áp góc đóng thứ phát, tình trạng tắc nghẽn cơ học ở góc là do một tình trạng bệnh lý đi kèm, chẳng hạn như bệnh võng mạc tăng sinh do đái tháo đường (PDR), tắc tĩnh mạch trung tâm do thiếu máu cục bộ, viêm màng bồ đào hoặc phát triển dốc xuống của biểu mô. Màng tân mạch co kéo (ví dụ trong bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh) hoặc sẹo hóa sau viêm có thể kéo mống mắt về phía trước gây đóng góc.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh tăng nhãn áp góc đóng

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính

Bệnh nhân bị đau mắt dữ dội và đỏ mắt, giảm thị lực, nhìn thấy quầng sáng màu xung quanh đèn, đau đầu, buồn nôn và đôi khi nôn. Các triệu chứng cơ năng toàn thân có thể rầm rộ đến mức bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm thành bệnh lý thần kinh hoặc tiêu hóa. Khám lâm sàng cho thấy cương tụ kết mạc, đục giác mạc, đồng tử giãn nửa vời và phản ứng viêm trong tiền phòng. Bệnh nhân có biểu hiện giảm thị lực. Nhãn áp (IOP) thường là 40 đến 80 mm Hg. Khó quan sát đầu thị thần kinh vì giác mạc phù và không làm được thị trường vì bệnh nhân kích thích. Với góc đóng nguyên phát (ví dụ, nghẽn đồng tử và mống mắt phẳng), khám lâm sàng mắt chưa bị ảnh hưởng có thể gợi ý chẩn đoán.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Ở những bệnh nhân nhức đầu, buồn nôn, và nôn, cần kiểm tra mắt.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính

Hình thái này biểu hiện tương tự bệnh tăng nhãn áp góc mở. Một số bệnh nhân bị đỏ mắt, khó chịu, nhìn mờ, hoặc nhức đầu đỡ đi khi ngủ (có lẽ do đồng tử co khi ngủ và thủy tinh thể ngả về phía sau dưới tác dụng của trọng lực). Khi soi góc tiền phòng, góc này hẹp. Có thể quan sát thấy dính chặt phía trước ngoại vi (PAS) (vết dính giữa mống mắt ngoại vi và cấu trúc góc) và gây tắc nghẽn vùng bè và/hoặc mặt thể mi. Nhãn áp có thể là bình thường nhưng thường cao hơn ở mắt bị ảnh hưởng.

Chẩn đoán bệnh tăng nhãn áp góc đóng

  • Cấp tính: Đánh giá nhãn áp (IOP) và triệu chứng lâm sàng

  • Mạn tính: Soi góc cho thấy dính trước phía chu biên, tổn thương thị thần kinh và khuyết thị trường điển hình

Chẩn đoán bệnh tăng nhãn áp góc đóng nguyên phát dựa vào lâm sàng và đo nhãn áp. Soi góc ở mắt lên cơn có thể khó vì giác mạc phù đục và biểu mô dễ tổn thương. Tuy nhiên, kiểm tra của mắt còn lại thấy góc hẹp. Nếu mắt còn lại có góc rộng, cần xem xét chẩn đoán khác ngoài bệnh tăng nhãn áp góc đóng nguyên phát. Cơ chế chặn đồng tử có thể được công nhận là mống mắt hình nón, tình trạng cong trước hoặc vòng cung của mống mắt giữa góc và đồng tử.

Chẩn đoán bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính dựa trên sự hiện diện của khớp thần kinh trước ngoại vi trên soi tuyến sinh dục và những thay đổi về trường thị giác và thần kinh thị giác đặc trưng (xem các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh tăng nhãn áp góc mở nguyên phát).

Trước khi cho hoặc kê đơn thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử (tình trạng này có thể gây ra bệnh tăng nhãn áp góc hẹp cấp tính ở những bệnh nhân có nguy cơ), cần phải đánh giá độ sâu tiền phòng. Nếu không có giác nghiệm, độ sâu phòng đó có thể được đánh giá một cách thô sơ hơn bằng cách sử dụng đèn khe hoặc thậm chí là đèn pin; cầm đèn pin bên thái dương của mắt, chiếu chùm sáng song song với mống mắt. Nếu một bóng đổ trên mống mắt mũi, thì góc đó có thể hẹp, vì mống mắt thái dương đổ về phía trước và chặn ánh sáng.

Điều trị bệnh tăng nhãn áp góc đóng

  • Cấp tính: Thuốc nhỏ mắt timolol, pilocarpine và brimonidine và thuốc acetazolamide đường uống và một chất thẩm thấu toàn thân, sau đó là phẫu thuật mống mắt ngoại vi bằng laser

  • Mạn tính: Tương tự như bệnh tăng nhãn áp góc mở nguyên phát ngoại trừ việc phẫu thuật cắt iridotomy ngoại vi bằng laser nên được thực hiện nếu bác sĩ nhãn khoa cảm thấy rằng thủ thuật này có thể làm chậm quá trình đóng góc cơ học. Đục thủy tinh thể cắt bỏ giúp trì hoãn sự tiến triển của bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính

Cần bắt đầu điều trị ngay vì bệnh nhân có thể mất thị lực nhanh chóng và vĩnh viễn. Bệnh nhân nên được dùng một số loại thuốc càng sớm càng tốt. Phác đồ được đề xuất là timolol 0,5% nhỏ một giọt, 30 phút một lần với 2 liều, pilocarpine 2% đến 4% nhỏ một giọt, 15 phút một lần với 2 liều, brimonidine 0,15% hoặc 0,2% nhỏ một giọt, 15 phút một lần với 2 liều, acetazolamide 500 mg uống ban đầu (dùng theo đường tĩnh mạch nếu bệnh nhân buồn nôn) sau đó là 250 mg, 6 giờ một lần và cân nhắc sử dụng thuốc thẩm thấu, chẳng hạn như glycerol uống 1 mL/kg pha loãng với một lượng nước lạnh tương đương, mannitol 1,0 đến 1,5 mg/kg đường tĩnh mạch hoặc isosorbide 100 g uống (220 mL dung dịch 45%). (CHÚ Ý: Dạng isosorbide này không phải là isosorbide dinitrate.) Theo dõi đáp ứng điều trị thông qua đo nhãn áp (IOP). Thuốc co đồng tử (ví dụ: pilocarpine) nói chung không hiệu quả với nhãn áp > 40 hoặc 50 mm Hg do một cơ vòng đồng tử bị thiếu máu.

Điều trị thực thị là laser cắt mống mắt chu biên (LPI) để mở một đường thoát cho dịch chảy từ hậu phòng ra tiền phòng giải quyết cơ chế nghẽn đồng tử. Thủ thuật được thực hiện khi giác mạc trong và viêm được kiểm soát. Trong một số trường hợp, giác mạc trong trở lại trong vòng vài giờ sau khi nhãn áp hạ; một số trường hợp khác có thể mất từ 1 đến 2 ngày. Xét nghiệm LPI được thực hiện ở cả hai mắt vì nguy cơ bị đau mắt cấp ở mắt còn lại là 80%.

Nguy cơ biến chứng với LPI là rất thấp so với lợi ích của nó. Lóa gây khó chịu có thể xảy ra. Nếu không thể thực hiện LPI, có thể cần phải phẫu thuật cắt mống mắt.

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính

Bệnh nhân bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính, bán cấp hoặc không liên tục đều nên được điều trị LPI. Ngoài ra, bệnh nhân góc hẹp, ngay cả khi không có triệu chứng, cũng cần được làm LPI để dự phòng bệnh tăng nhãn áp đóng góc. Nếu có đục thủy tinh thể, việc loại bỏ đục thủy tinh thể có thể làm chậm đáng kể sự tiến triển của bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính.

Các loại thuốc và phương pháp điều trị phẫu thuật rạch toàn bộ độ dày được sử dụng trong điều trị bệnh tăng nhãn áp góc đóng cũng giống như các loại thuốc được sử dụng cho bệnh tăng nhãn áp góc mở. Tuy nhiên, chống chỉ định tương đối đối với phẫu thuật tạo hình bè bằng laser nếu góc hẹp đến mức có thể làm cho dính thêm mống mắt trước ngoại vi sau thủ thuật laser. Thông thường, các phẫu thuật một phần chiều dày (xâm lấn tối thiểu) sẽ không được chỉ định.

Phòng ngừa bệnh tăng nhãn áp góc đóng

Bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính có thể được ngăn ngừa bằng cách tránh giãn đồng tử ở những người có nguy cơ. Điều này rất quan trọng khi cân nhắc sử dụng các loại thuốc tại chỗ để giãn đồng tử khi khám (ví dụ: cyclopentolate, phenylephrine) hoặc để điều trị (ví dụ: homatropine) hoặc khi dùng thuốc theo đường toàn thân có khả năng giãn đồng tử (ví dụ: scopolamine, thuốc chủ vận alpha-adrenergic thường dùng để điều trị tình trạng tiểu không tự chủ, thuốc có tác dụng kháng cholinergic).

Những điểm chính

  • Bệnh tăng nhãn áp có thể tiến triển cấp tính, không liên tục hoặc mạn tính.

  • Nghi ngờ bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính dựa trên khám lâm sàng và đo nhãn áp.

  • Xác nhận bệnh tăng nhãn áp góc đóng mạn tính bằng cách ghi lại tình trạng dính trước ngoại vi và những thay đổi ở dây thần kinh thị giác và trường thị giác.

  • Bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính là một cấp cứu.

  • Cần hội chẩn chuyên khoa mắt để tiến hành laze cắt mống mắt chu biên cho tất cả các bệnh nhân bệnh tăng nhãn áp góc đóng.