Các thuốc tránh thai đường uống (OC) là các hormone steroid ức chế giải phóng hormone phóng thích gonadotropin (GnRH) bởi vùng dưới đồi, do đó ức chế sự phóng thích các hormone tuyến yên gây kích thích sự rụng trứng. Các thuốc tránh thai đường uống cũng ảnh hưởng đến niêm mạc tử cung, giảm khả năng cấy phôi và làm cho chất nhầy cổ tử cung đặc lại, khiến cho tinh trùng không xâm nhập được vào tử cung. Nếu được sử dụng đều đặn và chính xác, các OC là một hình thức tránh thai có hiệu quả.
OC có thể được bắt đầu ở mọi lứa tuổi từ khi bắt đầu có kinh cho đến khi mãn kinh.
OC có thể là dạng kết hợp của hormone estrogen và progestin hoặc progestin đơn độc.
Thuốc tránh thai kết hợp
Cho hầu hết OC dạng kết hợp, một viên thuốc có hoạt chất (estrogen phối hợp với progestin) được dùng hàng ngày từ 21 đến 24 ngày. Sau đó, một viên thuốc không hoạt động (giả dược) được dùng hàng ngày trong 4 đến 7 ngày để cho phép máu chảy ra. Trong một số dạng bào chế, viên giả dược có chứa sắt và folate (axit folic); ở các dạng khác, viên thuốc này không thực sự không có hoạt tính nhưng có liều ethinyl estradiol thấp hơn so với những viên thuốc được sử dụng trong những tuần khác. OC phối hợp cũng có sẵn dưới các dạng bào chế chu kỳ kéo dài (với 84 viên thuốc thật, uống một viên mỗi ngày, tiếp theo là 7 ngày dùng các viên giả dược) hoặc các dạng bào chế sử dụng liên tục (thuốc thật hàng ngày, không có viên giả dược).
Hầu hết các thuốc ngừa thai có kết hợp chứa 10 đến 35 mcg ethinyl estradiol. Estradiol valerate có thể được sử dụng thay cho ethinyl estradiol. Liều lượng estrogen và progestin không trong suốt một tháng dưới dạng thuốc ngừa thai kết hợp (thuốc một pha); chúng thay đổi trong suốt tháng ở những thuốc khác (thuốc đa pha).
Tất cả các thuốc ngừa thai kết hợp có hiệu quả tương tự; tỷ lệ có chửa sau 1 năm là 0,3% với sử dụng hoàn hảo và khoảng 9% với việc sử dụng điển hình (ví dụ, không liên tục).
Chống chỉ định dùng các biện pháp tránh thai phối hợp estrogen-progestin (thuốc viên, miếng dán, vòng tránh thai trong âm đạo)
OC phối hợp hoặc các biện pháp tránh thai có estrogen-progestin khác (miếng dán, vòng tránh thai trong âm đạo) phải được sử dụng thận trọng ở một số phụ nữ (để biết thêm thông tin, hãy xem US Medical Eligibility Criteria for Contraceptive Use, 2016 và Update to US Medical Eligibility Criteria for Contraceptive Use, 2016: Updated recommendations for the use of contraception among women at high risk for HIV infection).
Nguy cơ bị các tác dụng bất lợi của biện pháp tránh thai có estrogen-progestin khác nhau, tùy thuộc vào yếu tố nguy cơ và các biến chứng liên quan. Việc sử dụng biện pháp tránh thai bằng estrogen-progestin gây ra nguy cơ sức khỏe không thể chấp nhận được ở những bệnh nhân có các đặc điểm sau:
< 21 ngày sau sinh
Đột biến sinh huyết khối, ưu huyết khối (bao gồm hội chứng kháng phospholipid), hoặc thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch hiện tại hoặc trước đây (huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc mạch phổi)
Ung thư đang hoạt động (di căn, đang điều trị hoặc trong vòng 6 tháng sau khi thuyên giảm lâm sàng), ngoại trừ ung thư da không phải ung thư tế bào hắc tố
Ung thư vú hiện nay
Bất động kéo dài do đại phẫu
Đau nửa đầu có tiền triệu
Hút thuốc ở phụ nữ ≥ 35 tuổi
Tăng huyết áp nặng (tâm thu ≥160 mm Hg hoặc tâm trương ≥ 100 mm Hg) hoặc có biến chứng do bệnh mạch máu
Bệnh cơ tim chu sinh < 6 tháng hoặc bị suy giảm chức năng tim ở mức độ trung bình hoặc nặng
Bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc nhiều yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch xơ vữa động mạch
Đột quỵ
Các rối loạn van tim có biến chứng
Bệnh tiểu đường > 20 năm hoặc có bệnh mạch máu (ví dụ, bệnh thần kinh, bệnh thận, bệnh võng mạc)
Lupus ban đỏ hệ thống có kháng thể kháng phospholipid dương tính (hoặc chưa xác định)
Ghép nội tạng có biến chứng
Xơ gan (mất bù) nặng, u tuyến tế bào gan hoặc ung thư gan
Viêm gan virus cấp
Việc sử dụng biện pháp tránh thai có estrogen-progestin thể hiện nguy cơ về mặt lý thuyết hoặc nguy cơ đã được chứng minh thường lớn hơn lợi ích ở những bệnh nhân có các đặc điểm sau:
≤ 42 ngày sau sinh có yếu tố nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch
Huyết khối tĩnh mạch nông (huyết khối liên quan đến ống thông tĩnh mạch ngoại biên có thể có nguy cơ thấp hơn)
Đã từng bị ung thư vú và không có bằng chứng về bệnh hiện tại trong 5 năm
Hút thuốc ở phụ nữ < 35 tuổi
Tăng huyết áp được kiểm soát tốt
Bệnh lý cơ tim chu sinh ≥ 6 tháng
Bệnh đa xơ cứng kèm theo tình trạng bất động kéo dài
Bệnh viêm ruột, nếu có yếu tố nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch
Bệnh tiểu tiện đã được điều trị hiện tại hoặc đã được điều trị y khoa hoặc có tiền sử liên quan bệnh ứ mật liên quan đến ngừa thai
Phẫu thuật giảm béo kèm theo tình trạng kém hấp thu do rút ngắn chiều dài chức năng của ruột non (ví dụ: bắc cầu dạ dày Roux-en-Y hoặc chuyển hướng mật-tụy)
Điều trị hiện tại bằng fosamprenavir, rifampin, rifabutin, lamotrigine hoặc một số loại thuốc chống co giật
Thuốc ngừa thai uống chỉ có progestin
Để có hiệu quả, OC chỉ chứa progestin phải được thực hiện vào cùng một thời điểm trong ngày, hàng ngày. Liều tương tự được dùng hàng ngày và không bao gồm thuốc giả. Chảy máu đột ngột là một tác dụng bất lợi thường gặp.
Các thuốc ngừa thai chỉ có progestin cung cấp ngừa thai hiệu quả chủ yếu bằng cách làm dày chất nhầy cổ tử cung và ngăn không cho tinh trùng đi qua kênh cổ tử cung và khoang niêm mạc tử cung để thụ tinh trứng. Trong một số chu kỳ, các OC này cũng ức chế sự rụng trứng, nhưng tác dụng này không phải là cơ chế họt động chính. Tỷ lệ mang thai với việc sử dụng hoàn hảo và điển hình của thuốc tránh thai đường uống chỉ có progestin tương tự như những thuốc tránh thai khác dạng kết hợp.
Chống chỉ định với các biện pháp tránh thai chỉ có progestin (thuốc viên, cấy ghép, tiêm)
Thuốc tránh thai đường uống chỉ có progestin thường được kê khi phụ nữ muốn dùng thuốc tránh thai nhưng lại chống chỉ định với estrogen.
Phụ nữ hiện đang mắc bệnh ung thư vú không nên dùng thuốc viên, cấy ghép hoặc tiêm chỉ có progestin.
Việc sử dụng biện pháp tránh thai chỉ có progestin thể hiện nguy cơ về mặt lý thuyết hoặc đã được chứng minh thường lớn hơn lợi ích ở những bệnh nhân có các đặc điểm sau:
Đã từng bị ung thư vú và không có bằng chứng về bệnh hiện tại trong 5 năm
Ra máu âm đạo không giải thích được
Hiện tại và tiền sử bệnh tim thiếu máu cục bộ
Xơ gan (mất bù) nặng, u tuyến tế bào gan hoặc ung thư gan
Tiền sử phẫu thuật bắc cầu hỗng tràng (đối với thuốc chỉ có progestin)
Điều trị hiện tại bằng rifampin, rifabutin hoặc một số loại thuốc chống co giật (đối với thuốc viên chỉ có proestin)
Bệnh tim thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp nặng hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch (đối với thuốc tiêm tránh có progestin)
Bệnh mạch máu, bao gồm do bệnh tiểu đường hoặc bệnh lupus ban đỏ hệ thống (đối với thuốc tiêm ngừa thai có progestin)
(Để biết thêm thông tin, hãy xem US Medical Eligibility Criteria for Contraceptive Use, 2016 và Update to US Medical Eligibility Criteria for Contraceptive Use, 2016: Updated recommendations for the use of contraception among women at high risk for HIV infection.)
Tác dụng bất lợi của thuốc tránh thai đường uống
Mặc dù OC có thể có một số tác động bất lợi, nhưng nguy cơ tổng thể của các vấn đề này là nhỏ. Đầy hơi, ấn đau ở vú, buồn nôn và nhức đầu là những tác dụng bất lợi thường gặp nhất.
Bệnh nhân dùng thuốc tránh thai đường uống phối hợp có thể bị vô kinh hoặc ra máu đột ngột (ra máu khi dùng viên thuốc thật) khi sử dụng kéo dài. Một trong những tác dụng này có thể được kiểm soát bằng cách chuyển sang dùng thuốc viên có liều estrogen cao hơn. Thuốc chỉ có progestin thường gây ra máu âm đạo bất thường.
Ở một số phụ nữ, quá trình rụng trứng vẫn bị ức chế trong vài tháng sau khi họ ngừng uống thuốc tránh thai, nhưng không có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng sinh sản. Thuốc tránh thai không ảnh hưởng xấu đến kết cục của thai kỳ khi thụ thai xảy ra trong hoặc sau khi sử dụng.
Estrogen làm tăng sản xuất aldosterone và gây ra sự ứ đọng của Natri, có thể gây tăng huyết áp và tăng cân liên quan đến liều dùng (lên đến khoảng 2 kg). Tăng cân có thể đi kèm với đầy bụng, phù nề.
Hầu hết các progestin được sử dụng trong OC có liên quan đến 19-nortestosterone và liên quan đến nội tiết tố androgen. Norgestima, etonogestrel và desogestrel đều chứa ít androgenic hơn levonorgestrel, norethindrone, norethindrone acetate, và ethynodiol dicitat. Hiệu quả của Androgen có thể bao gồm giảm mụn trứng cá, ít căng thẳng thần kinh, và một hiệu ứng đồng hóa làm tăng cân. Nếu phụ nữ tăng > 4,5 kg/năm, cần sử dụng một OC ít nội tiết tố nam. Các progestin kháng ung thư mới thế hệ thứ 4 bao gồm dienogest và drospirenone (liên quan đến spironolactone, thuốc lợi tiểu).
Tỷ lệ huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc huyết khối (ví dụ thuyên tắc động mạch phổi) tăng lên khi liều estrogen tăng lên. Với các OC có chứa từ 10 đến 35 mcg estrogen, nguy cơ sẽ cao gấp 2 đến 4 lần so với nguy cơ ban đầu. Tuy nhiên, nguy cơ gia tăng này vẫn thấp hơn nhiều so với nguy cơ mang thai. Các progestin phối hợp với thuốc tránh thai đường uống cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ này. Các thuốc tránh thai đường uống có levonorgestrel dường có nguy cơ thấp hơn các thuốc tránh thai đường uống có drospirenone hoặc desogestrel. Nguy cơ có thể tăng lên vì hormone steroid làm tăng sản sinh các yếu tố đông máu ở gan và làm tăng độ kết dính của tiểu cầu. Nếu nghi ngờ huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc nghẽn mạch phổi ở phụ nữ dùng thuốc tránh thai, nên ngưng dùng thuốc tránh thai ngay cho đến khi các kết quả của các xét nghiệm chẩn đoán có thể xác nhận hoặc loại trừ chẩn đoán. Ngoài ra, nên ngừng thuốc tránh thai ít nhất 1 tháng trước khi có bất kỳ cuộc giải phẫu lớn nào cần sự bất động trong một thời gian dài và nên dùng lại 1 tháng sau đó. Phụ nữ có tiền sử gia đình bị hoặc có nguy cơ cao bị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch không nên sử dụng các thuốc tránh thai đường uống có estrogen.
Kết quả nghiên cứu khác nhau về việc sử dụng thuốc tránh thai đường uống và nguy cơ ung thư vú (1). Một số nghiên cứu đã phát hiện ra nguy cơ tăng ít ở những người dùng hiện tại hoặc gần đây (2).
Nguy cơ ung thư cổ tử cung tăng nhẹ ở những phụ nữ đã sử dụng thuốc tránh thai đường uống > 5 năm, nhưng nguy cơ này sẽ giảm xuống mức cơ bản sau 10 năm sau khi ngừng uống (3). Cho dù nguy cơ này có liên quan đến tác dụng nội tiết hay đến các hành vi (như không sử dụng biện pháp tránh thai) thì không rõ ràng.
Các tác dụng phụ lên hệ thần kinh trung ương (CNS) của thuốc tránh thai đường uống có thể bao gồm buồn nôn, nôn ói, đau đầu, trầm cảm và rối loạn giấc ngủ. Mặc dù tăng nguy cơ đột quỵ là do thuốc tránh thai đường uống (OC), nhưng thuốc ngừa thai kết hợp liều thấp không làm tăng nguy cơ đột quỵ ở phụ nữ khỏe mạnh, bình thường, không hút thuốc. Tuy nhiên, nếu các triệu chứng thần kinh khu trú, chứng mất ngôn ngữ hoặc các triệu chứng khác có thể dự báo nguy cơ đột quỵ phát triển, thì nên ngừng thuốc. Người hút thuốc trên 35 tuổi không nên sử dụng các biện pháp tránh thai có chứa estrogen bởi vì tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và/hoặc đột quỵ.
Mặc dù progestins có thể gây ra các phản ứng đảo ngược, liên quan đến liều kháng insulin, sử dụng thuốc tránh thai uống với liều progestin thấp hiếm khi dẫn đến tăng đường huyết.
Mức cholesterol với huyết thanh mật dộ cao lipoprotein (HDL) có thể giảm khi sử dụng thuốc tránh thai với liều progestin cao nhưng thường tăng khi dùng thuốc ngừa thai khi liều progestin thấp và liều estrogen được sử dụng. Các estrogen trong OC làm tăng mức triglyceride và có thể làm trầm trọng thêm chứng tăng triglycerid máu trước đây. Hầu hết sự thay đổi nồng độ các chất chuyển hóa khác trong huyết thanh không có ý nghĩa lâm sàng. Khả năng globulin kết hợp với thyroxin có thể tăng ở người sử dụng OC; tuy nhiên, nồng độ thyroxine tự do, nồng độ hormone kích thích tuyến giáp, và chức năng tuyến giáp không bị ảnh hưởng.
Nồng độ của pyridoxin, folate, vitamin B phức tạp, axit ascorbic, Ca, mangan và kẽm giảm ở người sử dụng OC; mức vitamin A tăng. Các tác dụng nêu trên không có ý nghĩa quan trọng về mặt lâm sàng, và không nên bổ sung vitamin như là một chất bổ sung cho việc sử dụng OC.
Không nên dùng thuốc tránh thai đường uống nếu ứ mật hoặc vàng da phát sinh sau lần sử dụng trước đó. Những phụ nữ bị ứ đường mật trong thời kỳ mang thai (vàng da tự phát tái phát của thai nghén) có thể bị vàng da nếu họ uống thuốc tránh thai đường uống và cần phải sử dụng thận trọng thuốc tránh thai đường uống ở những phụ nữ này.
Nguy cơ phát triển sỏi mật dường như không tăng khi sử dụng thuốc tránh thai liều thấp.
Hiếm khi, u gan lành tính mà có thể vỡ tự nhiên, phát triển. Tỷ lệ gia tăng khi thời gian sử dụng và tăng liều OC; u thường tự thoái lui sau khi ngừng thuốc.
Nám da xuất hiện ở một số phụ nữ; nó được nhấn mạnh bởi ánh sáng mặt trời và biến mất chậm sau khi ngừng uống thuốc tránh thai đường uống. Vì điều trị rất khó, thuốc ngừa thai phải được ngừng lại khi sự sạm da xuất hiện lần đầu. OC không làm tăng nguy cơ u hắc tố.
Tài liệu tham khảo về tác dụng bất lợi
1. Fitzpatrick D, Pirie K, Reeves G, et al: Combined and progestagen-only hormonal contraceptives and breast cancer risk: A UK nested case-control study and meta-analysis. PLoS Med 20(3):e1004188, 2023. Xuất bản ngày 21 tháng 3 năm 2023. doi:10.1371/journal.pmed.1004188
2. ACOG Practice Advisory: Hormonal contraception and risk of breast cancer. American College of Obstetricians and Gynecologists. Xuất bản 2018, xác nhận lại 2022.
3. Iversen L, Sivasubramaniam S, Lee AJ, et al: Lifetime cancer risk and combined oral contraceptives: the Royal College of General Practitioners' Oral Contraception Study. Am J Obstet Gynecol 216(6):580.e1-580.e9, 2017 doi:10.1016/j.ajog.2017.02.002
Lợi ích của Thuốc tránh thai Đường uống
Các OC có một số lợi ích sức khoẻ rất quan trọng. Thuốc tránh thai đường uống phối hợp liều cao và liều thấp làm giảm nguy cơ (1)
Ung thư nội mạc tử cung giảm 60% sau ít nhất 10 năm sử dụng
Ung thư buồng trứng khoảng 50% sau 5 năm sử dụng và 80% sau ≥ 10 năm sử dụng
Chúng cũng làm giảm nguy cơ bị u nang buồng trứng chức năng, u buồng trứng lành tính, chảy máu tử cung bất thường do rối loạn chức năng phóng noãn, đau bụng kinh, rối loạn tiền kinh nguyệt, thiếu máu do thiếu sắt và rối loạn lành tính ở vú. Viêm vòi trứng, có thể làm giảm khả năng sinh sản, ít xảy ra hơn ở những người dùng thuốc tránh thai đường uống.
Tài liệu tham khảo về lợi ích
1. Iversen L, Sivasubramaniam S, Lee AJ, et al: Lifetime cancer risk and combined oral contraceptives: the Royal College of General Practitioners' Oral Contraception Study. Am J Obstet Gynecol 216(6):580.e1-580.e9, 2017 doi:10.1016/j.ajog.2017.02.002
Tương tác thuốc của thuốc tránh thai đường uống
Mặc dù OC có thể làm chậm sự trao đổi chất của một số loại thuốc (ví dụ meperidine), nhưng những ảnh hưởng này không quan trọng về mặt lâm sàng.
Một số loại thuốc có thể gây ra các enzyme gan (ví dụ, các enzym cytochrome P-450) làm tăng tốc độ chuyển hóa OC lên các chất chuyển hóa có hoạt tính sinh học ít hơn. Phụ nữ sử dụng những thuốc này không nên được cung cấp đồng thời thuốc ngừa thai trừ khi các phương pháp ngừa thai khác không có hoặc không thể chấp nhận. Các thuốc này bao gồm một số thuốc chống động kinh (thường là phenytoin, carbamazepine, barbiturates, primidone, topiramate và oxcarbazepine), chất ức chế protease ritonavir, rifampin và rifabutin. Lamotrigine không nên dùng với OC vì các thuốc tránh thai uống có thể làm giảm mức lamotrigine và ảnh hưởng đến việc kiểm soát cơn động kinh.
Bắt đầu dùng thuốc tránh thai đường uống
Trước khi bắt đầu sử dụng thuốc tránh thai, bác sĩ lâm sàng nên xem xét kỹ lưỡng về mặt y tế, xã hội và gia đình để kiểm tra các chống chỉ định tiềm ẩn. Đo huyết áp và làm xét nghiệm thử thai bằng nước tiểu. Không nên kê đơn thuốc tránh thai đường uống trừ khi huyết áp bình thường và kết quả của xét nghiệm thử thai bằng nước tiểu âm tính. Khám lâm sàng thể chất không bắt buộc, mặc dù việc khám này thường được thực hiện khi bắt đầu dùng OC. Tuy nhiên, nên có một cuộc khám lâm sàng trong vòng 1 năm từ khi bắt đầu dùng OC. Việc tái khám sau 3 tháng có thể hữu ích để thảo luận về các tác dụng bất lợi tiềm ẩn và kiểm tra lại huyết áp. Có thể kê toa thuốc tránh thai uống cho 13 tháng một lần.
OC có thể được bắt đầu cùng ngày với lần khám tránh thai (thường được gọi là phương pháp bắt đầu nhanh). Ngày trong tuần và thời gian trong chu kỳ kinh nguyệt không quan trọng để khi nào bắt đầu sử dụng OC. Tuy nhiên, nếu bắt đầu dùng thuốc tránh thai > 5 ngày sau ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt, phụ nữ nên sử dụng phương pháp tránh thai dự phòng (ví dụ như bao cao su) trong 7 ngày đầu sử dụng OC.
OC chỉ chứa progestin phải được thực hiện vào cùng một thời điểm trong ngày, hàng ngày. Nếu > 27 giờ giữa các liều OC chỉ dùng progestin, phụ nữ nên sử dụng phương pháp tránh thai dự phòng trong 7 ngày, ngoài việc tiếp tục uống OC mỗi ngày.
Đối với kết hợp các OC, thời gian không nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nếu người dùng OC kết hợp quên uống 1 viên một ngày, họ nên uống 2 viên vào ngày hôm sau. Nếu quên uống thuốc trong 2 ngày, nên tiếp tục dùng OC mỗi ngày và nên sử dụng phương pháp ngừa thai dự phòng trong 7 ngày. Nếu họ quên uống thuốc trong 2 ngày và có quan hệ tình dục không an toàn trong 5 ngày trước khi quên uống thuốc, họ có thể cân nhắc dùng thuốc tránh thai khẩn cấp.
Thời điểm bắt đầu OC kết hợp sau khi mang thai thay đổi:
Sau khi sẩy thai tự nhiên hay phá thai trong tam cá nguyệt thứ nhất: Bắt đầu ngay lập tức
Đối với những trường hợp đẻ thai từ 12 đến 28 tuần tuổi: Bắt đầu trong vòng 1 tuần nếu phụ nữ không có các yếu tố nguy cơ đáng kể khác đối với thuyên tắc huyết khối
Sau sinh > 28 tuần: Không bắt đầu cho đến khi sau sinh > 21 ngày vì nguy cơ thuyên tắc huyết khối tăng lên trong thời kỳ hậu sản (tuy nhiên, nên trì hoãn 42 ngày nếu phụ nữ đang cho con bú hoàn toàn [cho ăn theo nhu cầu bao gồm cả bú đêm và không bổ sung các thực phẩm khác] hoặc nếu nguy cơ của họ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch tăng lên [ví dụ: do một ca sinh mổ gần đây]
Ở 98% phụ nữ cho con bú mẹ hoàn toàn và trong thời kỳ mà kinh nguyệt của bệnh nhân không tiếp tục, thai kỳ sẽ không xảy ra trong 6 tháng sau sinh, ngay cả khi không sử dụng biện pháp tránh thai. Tuy nhiên, những phụ nữ này thường được khuyên nên bắt đầu sử dụng biện pháp tránh thai trong vòng 3 tháng sau khi sinh.
Thuốc tránh thai đường uống chỉ có progestin có thể được sử dụng ngay sau khi đẻ.
Nếu phụ nữ có tiền sử rối loạn gan, cần kiểm tra để xác nhận chức năng gan bình thường trước khi được kê toa. Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường (ví dụ: những người có tiền sử gia đình, từng mắc bệnh tiểu đường thai kỳ, sinh con nhẹ cân hoặc có dấu hiệu thực thể về kháng insulin như bệnh gai đen) cần phải có sàng lọc glucose huyết tương và toàn bộ hồ sơ lipid huyết thanh hàng năm. Việc sử dụng liều OC thấp không chống chỉ định bởi kết quả xét nghiệm glucose bất thường hoặc lipid bất thường, ngoại trừ triglycerides > 250 mg/dL (2,8 mmol/L). Hầu hết phụ nữ bị đái tháo đường có thể dùng các thuốc ngừa thai kết hợp; ngoại trừ những người có biến chứng về mạch máu (ví dụ, bệnh thần kinh, bệnh võng mạc, bệnh thận) và những người bị bệnh tiểu đường > 20 năm.
Những điểm chính
Thuốc tránh thai đường uống (OC) thường được dung nạp tốt nhưng có thể gây đau đầu, buồn nôn, đầy hơi hoặc ấn đau ở ngực.
Thuốc ngừa thai đường uống chỉ có progestin có thể gây chảy máu bất thường và phải được thực hiện vào cùng một thời điểm mỗi ngày sẽ có hiệu quả.
Có thể dùng thuốc tránh thai đường uống từ khi bắt đầu có kinh cho đến khi mãn kinh nếu không có chống chỉ định.
Thuốc tránh thai đường uống phối hợp làm tăng nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch lên gấp 2 lần đến 4 lần nguy cơ ở lần khám ban đầu, nhưng nguy cơ này thấp hơn nguy cơ liên quan đến mang thai.
Các kết quả nghiên cứu khác nhau liên quan đến việc sử dụng thuốc tránh thai đường uống và nguy cơ ung thư vú, nhưng một số nghiên cứu đã phát hiện thấy nguy cơ gia tăng không đáng kể ở những người dùng hiện tại hoặc gần đây; thuốc tránh thai đường uống làm giảm nguy cơ bị ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung.
Trước khi được kê toa, phải có tiền sử bệnh nhân đầy đủ: một cuộc kiểm tra sức khoẻ không bắt buộc nhưng lý tưởng nên được thực hiện trong vòng 1 năm sau khi bắt đầu dùng OC.