Gãy khớp háng

(Gãy cổ xương đùi, gãy chỏm xương đùi, gãy nền cổ, gãy liên mấu chuyển, gãy dưới mấu chuyển)

TheoDanielle Campagne, MD, University of California, San Francisco
Xem xét bởiDiane M. Birnbaumer, MD, David Geffen School of Medicine at UCLA
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 3 2025
v13387465_vi
Gãy xương hông có thể xảy ra ở chỏm, cổ xương đùi, tại hoặc dưới khu vực khối mấu chuyển. Những loại gãy này thường gặp ở người già, đặc biệt ở bệnh nhân có loãng xương, thường do ngã. Chẩn đoán bằng phim chụp X-quang hoặc nếu cần, chụp MRI. Điều trị thường cần mổ mở nắn chỉnh kết hợp xương bên trong (ORIF) hoặc đôi khi phải thay khớp háng bán phần hoặc toàn phần.

Nguồn chủ đề

(Xem thêm Tổng quan về gãy xương.)

Hầu hết các trường hợp gãy xương háng là do ngã, nhưng ở người già, dù chấn thương rất nhẹ (ví dụ lăn trên giường, đứng dậy từ ghế, đi bộ) cũng có thể dẫn đến gãy xương, thường là do loãng xương làm yếu xương.

Các vị trí gãy bao gồm

  • Chỏm xương đùi

  • Cổ xương đùi (dưới chỏm)

  • Liên mấu chuyển

  • Dưới mấu chuyển

hay gặp nhất là gãy dưới chỏm và gãy liên mấu chuyển.

Biến chứng gãy xương háng bao gồm

Các biến chứng hay gặp hơn ở người già có gãy di lệch cổ xương đùi.

Ở những bệnh nhân bị gãy cổ xương đùi, nguy cơ hoại tử xương tăng lên do gãy xương thường làm gián đoạn việc cung cấp máu cho đầu xương đùi.

Các triệu chứng và dấu hiệu của gãy xương hông

Gãy xương hông thường gây đau háng và mất khả năng đi lại. Đôi khi triệu chứng đau phản chiếu lên gối và gây nhầm lẫn với bệnh lí khớp gối. Tương tự vậy gãy ngành mu cũng có thể gây đau khớp háng.

Bệnh nhân bị gãy di lệch nhiều không thể đi lại và đau nhiều; chân bên gãy co ngắn, đổ ngoài. Ngược lại, những bệnh nhân gãy cài, không rời vẫn có thể đi bộ và chỉ đau vừa, không có biến dạng rõ. Tuy nhiên, những bệnh nhân như vậy không thể gấp háng khi có kháng lực và gối duỗi.

Kiểm tra vận động xoay háng với gối tư thế gấp gây đau tăng để giúp phân biệt gãy xương háng với bệnh lí ngoài khớp như viêm túi hoạt dịch mấu chuyển.

Chẩn đoán gãy xương hông

  • Các phim chụp X-quang

  • Hiếm khi cần MRI hay cắt lớp vi tính

Chẩn đoán nghi ngờ gãy khớp háng bắt đầu bằng chụp X-quang xương chậu thẳng và nghiêng. Nếu phát hiện có gãy xương, cần phải chụp X-quang toàn bộ xương đùi. Dấu hiệu gợi ý về gãy xương (ví dụ ở gãy xương không di lệch, gãy cài) có thể bao gồm những bất thường liên quan mật độ các bè xương cổ xương đùi hoặc vỏ xương. Tuy nhiên, đôi khi phim chụp X-quang lại cho kết quả bình thường, đặc biệt ở những bệnh nhân bị gãy xương dưới cổ xương đùi hoặc loãng xương nặng.

Nếu không thấy gãy xương trên phim chụp X quang nhưng vẫn nghi ngờ về mặt lâm sàng, chụp MRI là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tiếp theo được ưu tiên. Chụp MRI nhạy cảm hơn chụp CT, có thể bỏ lỡ tới 30% số gãy xương cấp tính.

Ngọc trai & cạm bẫy

  • Nếu chụp X-quang không thấy gãy xương vùng háng nhưng lâm sàng nghi ngờ, hãy thực hiện MRI.

Điều trị gãy xương hông

  • Thường cần mổ mở nắn chỉnh, kết hợp xương bên trong

  • Đôi khi cần thay khớp háng bán phần hoặc toàn phần

Phần lớn các loại gãy xương háng được phẫu thuật để giảm đau và hạn chế kéo dài thời gian nằm tại giường, điều cần thiết khi không phẫu thuật và làm tăng nguy cơ xảy ra các biến chứng nghiêm trọng (ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu, loét tì đè, viêm phổi, tử vong), đặc biệt ở người cao tuổi.

Phục hồi chức năng bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi điều trị gãy xương háng.

Chống đông dự phòng có thể làm giảm tỷ lệ huyết khối tĩnh mạch sau gãy khớp háng (1).

Trong khoa cấp cứu, bệnh nhân cao tuổi bị gãy xương hông có thể bị đau trong khi chờ đợi khám tim mạch trước mổ. Có thể sử dụng phương pháp phong bế thần kinh đùi và phong bế khoang cân chậu để kiểm soát đau ở bệnh nhân cao tuổi bị gãy khớp háng đơn độc. Đau có thể được kiểm soát trong khoảng từ 6 đến 8 giờ, và bệnh nhân không cần các thuốc giảm đau opioid gây tác dụng phụ toàn thân (ví dụ như suy hô hấp). Chống chỉ định của việc phong bế thần kinh vùng bao gồm các bệnh chảy máu và bệnh đông máu (2).

Gãy cổ xương đùi

Gãy cổ xương đùi không di lệch và gãy cài ở người cao tuổi hay với tất cả các trường hợp gãy cổ xương đùi ở những bệnh nhân trẻ tuổi thường được điều trị bằng mổ mở nắn chỉnh kết hợp xương.

Gãy cổ xương đùi di lệch ở người cao tuổi thường được điều trị bằng thay khớp háng để giúp đi lại tỳ sớm và giảm khả năng phải phẫu thuật khác thêm. Bệnh nhân cao tuổi đi bộ rất ít và do đó gây ra ít tỳ lực lên khớp háng thường được chỉ định thay khớp háng bán phần (chỉ thay phần đầu trên xương đùi); những bệnh nhân đi lại nhiều hơn được chỉ định thay khớp háng toàn phần (thay đầu trên xương đùi, tái tạo bề mặt ổ cối). Thay khớp háng toàn phần tốn kém hơn, nhiều nguy cơ hơn nhưng kết quả tốt hơn.

Gãy liên mấu chuyển xương đùi

Gãy liên mấu chuyển thường được điều trị bằng phương pháp ORIF (xem hình Nắn xương mở kết hợp cố định bên trong [ORIF]).

Mổ mở nắn chỉnh, kết hợp xương bên trong (ORIF)

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Steele N, Dodenhoff RM, Ward AJ, Morse MH. Thromboprophylaxis in pelvic and acetabular trauma surgery. The role of early treatment with low-molecular-weight heparin. J Bone Joint Surg Br. 2005;87(2):209-212. doi:10.1302/0301-620x.87b2.14447

  2. 2. Haines L, Dickman E, Ayvazyan S, et al. Ultrasound-guided fascia iliaca compartment block for hip fractures in the emergency department. J Emerg Med. 43 (4):692–697, 2012. doi: 10.1016/j.jemermed.2012.01.050

Những điểm chính

  • Gãy xương hông (đặc biệt là gãy dưới chỏm và liên mấu chuyển) thường gặp ở những bệnh nhân cao tuổi loãng xương.

  • Các biến chứng hay gặp nhất là hoại tử chỏm, không liền và thoái hóa khớp.

  • Nếu cơ chế gợi ý gãy xương hông, bệnh nhân không thể gấp đùi tư thế duỗi gối cần nghi ngờ có gãy cài, kể cả nếu bệnh nhân đau ít và vẫn còn có thể đi lại được.

  • Đối với những bệnh nhân có đau háng hay gối không rõ nguyên nhân, đi lại khó khăn do đau, khám kiểm tra quay khớp háng khi gấp gối, nếu đau tăng lên có thể nghĩ đến gãy xương háng.

  • Nếu nghi ngờ gãy xương dựa trên các dấu hiệu lâm sàng nhưng không thấy trên phim chụp X-quang, hãy chụp MRI.

  • Hầu hết các loại gãy được điều trị bằng phẫu thuật (kết hợp xương hoặc thay khớp) để bệnh nhân có thể đi lại được càng sớm càng tốt.

  • Cân nhắc sử dụng gây tê thần kinh đùi hoặc khoang cân căng mạc đùi thay vì thuốc opiods để giảm đau trong ngắn hạn, đặc biệt ở người già chỉ có gãy xương háng đơn thuần.