Nuôi cấy

TheoMaria T. Vazquez-Pertejo, MD, FACP, Wellington Regional Medical Center;
Larry M. Bush, MD, FACP, Charles E. Schmidt College of Medicine, Florida Atlantic University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 1 2025

Nguồn chủ đề

Nuôi cấy là sự sinh trưởng của vi sinh vật trên hoặc trong môi trường dinh dưỡng hoặc chất lỏng; tăng số lượng các vi sinh vật để nhận dạng đơn giản hơn. Nuôi cấy cũng tạo điều kiện cho việc thử nghiệm tính nhạy cảm với kháng sinh.

Việc liên kết với phòng thí nghiệm là cần thiết. Mặc dù hầu hết các mẫu vật được đặt trên môi trường đích chung (ví dụ như máu hoặc thạch sôcôla), một số mầm bệnh đòi hỏi phải bao gồm các chất dinh dưỡng cụ thể và chất ức chế hoặc các điều kiện đặc biệt khác (xem bảng Môi trường Chọn lọc để Phân lập Vi khuẩn Thông thường); để ủ (ví dụ: nhiệt độ cụ thể, nồng độ oxy hoặc carbon dioxide, hoặc thời gian). Nếu nghi ngờ một trong những căn nguyên gây bệnh này hoặc nếu bệnh nhân đang dùng thuốc kháng sinh, cần phải làm xét nghiệm. Nguồn bệnh phẩm được báo cáo để phòng thí nghiệm có thể phân biệt các mầm bệnh từ vị trí đặc hiệu trong vi hệ bình thường.

Bảng
Bảng

Thu thập bệnh phẩm

Thu thập bệnh phẩm là rất quan trọng. Để chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, quy tắc chung là lấy mẫu ở nơi bị nhiễm trùng. Đối với các tổn thương da, ưu tiên lấy mẫu ở rìa, chứ không phải ở giữa.

Không khuyến khích sử dụng gạc. Tuy nhiên, nếu sử dụng gạc thì tăm bông được ưa chuộng hơn vì nó có thể thu lại được nhiều bệnh phẩm hơn. Tăm bông dùng cho xét nghiệm phân tử phải tương thích với thử nghiệm phân tử cụ thể mà vi sinh vật được dự đoán. Sử dụng loại gạc sai có thể gây ra kết quả âm tính giả. Gạc bằng gỗ độc đối với một số virus. Các miếng gạc bông độc đối với một số vi khuẩn, bao gồm cả chlamydiae.

Nuôi cấy máu cần phải khử trùng và khử trùng da (ví dụ: da cần phải được chà xát bằng dung dịch cồn isopropyl 70% kết hợp với chlorhexidine gluconate và/hoặc cồn iốt) (1). Người ta thường sử dụng nhiều mẫu, mỗi mẫu lấy từ một vị trí khác nhau; các mẫu này được lấy gần như cùng lúc với các đợt sốt nếu có thể. Hệ vi sinh vật bình thường của da phát triển trong một mẫu máu thường được hiểu là do mẫu bị nhiễm bẩn. Thật không may, các mẫu máu thường bị nhiễm bẩn, tình trạng này có khả năng gây ra kết quả tiêu cực cho bệnh nhân cũng như chi phí đáng kể (2).

Nếu lấy mẫu máu từ đường catheter tĩnh mạch trung tâm, cũng cần lấy mẫu máu ngoại vi để giúp phân biệt nhiễm trùng máu toàn thân hay do nhiễm trùng catheter. Nuôi cấy từ catheter bị nhiễm khuẩn thường dương tính nhanh hơn và chứa nhiều sinh vật hơn so với việc nuôi cấy máu ngoại vi đồng thời. Một số nấm, đặc biệt là nấm mốc (ví dụ, loài Aspergillus), thông thường không thể nuôi cấy từ máu.

Tất cả các mẫu bệnh phẩm phải được vận chuyển nhanh chóng, trong môi trường thích hợp và trong điều kiện hạn chế sự phát triển của bất kỳ hệ vi khuẩn bình thường nào có khả năng gây ô nhiễm. Để định lượng chính xác mầm bệnh, cần phải ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh; mẫu vật nên được vận chuyển đến phòng thí nghiệm ngay lập tức hoặc, nếu vận chuyển bị trì hoãn, làm lạnh (trong hầu hết các trường hợp).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. CLSI. Principles and Procedures for Blood Cultures. 2nd ed. CLSI guideline M47. Clinical and Laboratory Standards Institute; 2022.

  2. 2. Doern GV, Carroll KC, Diekema DJ, et al. Practical Guidance for Clinical Microbiology Laboratories: A Comprehensive Update on the Problem of Blood Culture Contamination and a Discussion of Methods for Addressing the Problem. Clin Microbiol Rev. 2019;33(1):e00009-19. Xuất bản ngày 30 tháng 10 năm 2019. doi:10.1128/CMR.00009-19

Những lưu ý đặc biệt về nuôi cấy

Một số nuôi cấy có những lưu ý đặc biệt.

kỵ khí

Vi khuẩn kị khí không nên được nuôi cấy từ những nơi mà chúng là một phần của hệ vi khuẩn thông thường vì sự phân biệt mầm bệnh từ hệ vi khuẩn thông thường là không thể. Mẫu vật phải được bảo vệ khỏi không khí, có thể là khó khăn.

Đối với mẫu tăm bông, phương tiện vận chuyển kị khí phải có sẵn. Tuy nhiên, các mẫu chất lỏng (ví dụ, áp xe) tốt hơn mẫu tăm bông để lấy được các vi khuẩn kị khí. Các mẫu chất lỏng nên được thu thập bằng một ống tiêm mà từ đó tất cả không khí đã được loại bỏ (để giảm thiểu tiếp xúc của mẫu với oxy) và gửi đến phòng thí nghiệm trong ống tiêm (không có kim) hoặc chuyển sang lọ vận chuyển kị khí.

Mycobacteria

Mycobacteria rất khó nuôi cấy. Các mẫu vật có hệ vi khuẩn thông thường (thí dụ, đờm) trước tiên phải được khử nhiễm và cô đặc.

Mycobacterium tuberculosis và một số loại vi khuẩn khác phát triển chậm. Sự phát triển của M. tuberculosis thường nhanh hơn trong chất lỏng so với trong môi trường rắn; việc sử dụng thường xuyên các hệ thống tự động với chất lỏng có thể dẫn đến sự tăng trưởng trong vòng 2 tuần so với 4 tuần trên môi trường rắn như thạch Lowenstein-Jensen. Ngoài ra, một vài sinh vật có thể có mặt trong một mẫu vật. Nhiều mẫu vật từ cùng một vị trí có thể giúp tối đa hoá năng suất. Bệnh phẩm cần phải để mọc trong 8 tuần trước khi bị loại bỏ. M. ulcerans, nguyên nhân Loét, yêu cầu lên đến 12 tuần ở nhiệt độ 32°C trên môi trường thạch Lowenstein-Jensen.

Nếu nghi ngờ một mycobacterium không điển hình, phòng thí nghiệm sẽ được thông báo.

Virus

Vi rút thường được nuôi cấy từ que tăm bông lấy mẫu bệnh phẩm và mẫu mô. Các mẫu này thường được vận chuyển trong môi trường có chứa chất kháng khuẩn và chất kháng nấm.

Mẫu được tiêm vào môi trường nuôi cấy mô hỗ trợ virus nghi ngờ và ức chế tất cả các vi khuẩn khác. Các virus có tính không ổn định cao (như varicella zoster) nên được tiêm vào môi trường nuôi cấy mô trong vòng 1 giờ. Nuôi cấy mô theo cách thông thường là nhạy cảm nhất. Kỹ thuật nuôi cấy lọ vỏ, trong đó mẫu vật được ly tâm trên một lớp tế bào trong lọ, cho kết quả nhanh hơn (2 ngày so với 7 đến 14 ngày).

Một số loại vi rút thông thường không thể phát hiện được bằng các phương pháp nuôi cấy thông thường và cần phải có các phương pháp chẩn đoán thay thế. Ngoài ra, nhiều phòng xét nghiệm lâm sàng không còn thực hiện nuôi cấy vi rút nữa. Các phương pháp dựa trên axit nucleic đã thay thế nuôi cấy virút đối với hầu hết các loại vi-rút phổ biến (xem bảng Xét nghiệm chẩn đoán một số tác nhân gây bệnh vi rút), như sau:

Nấm

Các mẫu bệnh phẩm nấm lấy từ các vị trí không vô trùng phải được cấy vào môi trường có chất kháng khuẩn. Các mẫu bệnh phẩm phải được để phát triển trong 3 đến 4 tuần trước khi được coi là âm tính và bị loại bỏ.