Soi dưới ánh sáng có thể được thực hiện nhanh chóng nhưng độ chính xác phụ thuộc vào kinh nghiệm của người soi và chất lượng của tiêu bản. Các quy định thường hạn chế việc sử dụng kính hiển vi của bác sĩ để sử dụng cho mục đích chẩn đoán bên ngoài phòng thí nghiệm đã được cấp phép.
Soi trực tiếp mô tổn thương có thể phân biệt bệnh xâm lấn với hệ vi sinh vật bình thường trên bề mặt - sự phân biệt này không dễ dàng có được bằng các phương pháp nuôi cấy.
Hầu hết bệnh phẩm được xử lý nhuộm làm cho mầm bệnh có màu sắc, nổi bật lên so với nền, mặc dù có thể sử dụng các bệnh phẩm không nhuộm để phát hiện các loại nấm và một số mầm bệnh khác.
Bác sĩ sẽ chỉ định thuốc nhuộm dựa trên các mầm bệnh có thể xảy ra. Tuy nhiên, không có thuốc nhuộm nào là đặc hiệu 100% (tức là, các sinh vật khác nhau có thể nhuộm tương tự nhau). Hầu hết các mẫu được xử lý nhuộm Gram, và nếu nghi ngờ vi khuẩn lao, sẽ nhuộm kháng acid. Tuy nhiên, một số mầm bệnh không dễ quan sát thấy bằng cách sử dụng những cách nhuộm này; nếu nghi ngờ những mầm bệnh này, cần sử dụng phương pháp nhuộm khác hoặc phương pháp định danh khác.
Bởi vì phát hiện vi sinh thường đòi hỏi một nồng độ vi khuẩn ít nhất là khoảng 1 ×104-5/mL, hầu hết các mẫu dịch cơ thể (ví dụ dịch não tủy) được cô đặc (ví dụ, bằng ly tâm) trước khi kiểm tra.
Nhuộm Gram
Nhuộm Gram thực hiện được những điều sau:
BÁC SĨ ROSALIND KING/THƯ VIỆN ẢNH KHOA HỌC
CNRI/SCIENCE PHOTO LIBRARY
Phân loại vi khuẩn theo khả năng bắt màu tím tinh thể (gram dương - xanh) hay không (gram âm- đỏ)
Làm nổi bật hình thái tế bào (ví dụ, que, cầu) và sự sắp xếp tế bào (ví dụ, cụm, chuỗi, xếp đôi)
Xác định bạch cầu đa nhân, cho biết nhiễm khuẩn hơn là nhiễm khuẩn
Những đặc điểm đặc trưng có thể định hướng trực tiếp sử dụng kháng sinh trong khi chờ kết quả khẳng định. Tìm ra nhiều loại vi sinh vật đa hình thái và đặc điểm đặc trưng trên tiêu bản nhuộm. Gram gợi ý bệnh phẩm bị nhiễm bẩn hoặc nhiễm trùng đa vi khuẩn Tìm thấy nhiều tế bào vảy trong mẫu đờm cho thấy mẫu bị nhiễm nước bọt và do đó hạn chế tác dụng chẩn đoán.
Để làm một tiêu bản nhuộm Gram, các kỹ thuật viên sẽ cố định bệnh phẩm bằng nhiệt trên một lát cắt và nhuộm bằng cách tiếp xúc tuần tự với tím tinh thể, iodine, chất khử màu, và phản chất nhuộm (thường là safranin).
Nhuộm kháng acid và định danh tiêu bản kháng acid
Những tiêu bản này được sử dụng để xác định những điều sau:
CDC/SCIENCE PHOTO LIBRARY
WEBPATHLOGY/THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC
Các vi sinh vật có tính kháng acid (loài Mycobacterium)
Sinh vật có tính kháng acid vừa phải (chủ yếu là loài Nocardia)
Rhodococcus và các chi liên quan
Nang của một số ký sinh trùng (ví dụ, Cryptosporidium, microsporidia, Cystoisospora [Isospora] belli, Cyclospora, Balantidium coli)
Sự phát hiện vi khuẩn lao trong đờm đòi hỏi ít nhất 10.000 sinh vật/mL, trong khi vi khuẩn lao thường có mặt ở các mức thấp hơn, do đó độ nhạy bị hạn chế. Thông thường, vài mL đờm được làm sạch với natri hydroxyd và cô đặc bằng cách ly tâm để nhuộm kháng acid. Độ đặc hiệu cao hơn, mặc dù một số vi khuẩn kháng acid mức độ vừa rất khó phân biệt với trực khuẩn lao.
Nhuộm huỳnh quang
Tiêu bản nhuộm huỳnh quang cho phép phát hiện ở nồng độ thấp hơn (< 1 × 104 tế bào/mL). Ví dụ:
Acridine cam (vi khuẩn và nấm)
Auramine-rhodamine và auramine O (mycobacteria)
Calcofluor trắng (nấm, đặc biệt là nấm lưỡng hình)
Kết hợp nhuộm huỳnh quang với một kháng thể trực tiếp với mầm bệnh (miễn dịch huỳnh quang trực tiếp hoặc gián tiếp) về mặt lý thuyết làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu. Tuy nhiên, các xét nghiệm này rất khó đọc và phiên giải. Rất ít xét nghiệm (ví dụ xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp tìm Pneumocystis và Legionella) có tính thương mại sẵn có và được sử dụng phổ biến.
Liên kết ướt
Có thể sử dụng phương pháp soi mẫu ướt để phát hiện các dấu hiệu sau đây qua kính hiển vi:
Ký sinh trùng (bao gồm trứng giun sán và ấu trùng)
Tế bào âm đạo (hiện diện trong viêm âm đạo do vi khuẩn)
Động vật di động (ví dụ, Trichomonas)
Treponema spirochetes (có trong bệnh giang mai)
Khả năng quan sát được nấm có thể tăng lên bằng cách sử dụng 10% kali hydroxit (KOH) để hòa tan các mô xung quanh và các vi sinh vật không phải nấm.
Nhuộm mực tàu (keo carbon)
Phương pháp nhuộm mực Ấn Độ chủ yếu được sử dụng để phát hiện Cryptococcus neoformans và các loại nấm có vách khác trong một tế bào lắng (ví dụ, dịch não tủy lắng). Nền, chứ không phải là chính bệnh phẩm, được nhuộm màu, làm cho bất kỳ viền xung quanh căn nguyên vi sinh đều nhìn thấy như một quầng sáng. Trong dịch não tủy, xét nghiệm này không nhạy như xét nghiệm tìm kháng nguyên cryptococcus. Độ đặc hiệu cũng hạn chế; bạch cầu cũng có thể có vách.
Nhuộm Warthin-Starry và nhuộm Dieterle
Nhuộm bạc được sử dụng để quan sát các vi khuẩn như
WEBPATHLOGY/THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC
CDC/bác sĩ, tiến sĩ Sherif Zaki; DVBD/THƯ VIỆN ẢNH KHOA HỌC
Bartonella henselae (nguyên nhân gây bệnh mèo cào)
Nhuộm Wright và nhuộm Giemsa
Phương pháp nhuộm này được sử dụng để phát hiện những căn nguyên sau đây:
Được sự cho phép của nhà xuất bản. Từ Tefferi A, Li C. Trong Tập ảnh về Huyết học lâm sàng. Biên tập bởi JO Armitage. Philadelphia, Current Medicine năm 2004
Ký sinh trùng trong máu
Histoplasma capsulatum trong tế bào thực bào và tế bào mô
Các thể nội bào được tạo thành bởi virus và chlamydia
Trophozoites của Pneumocystis jirovecii
Một số vi khuẩn nội bào
Nhuộm trichrome (nhuộm Gomori-Wheatley) và nhuộm sắt hematoxylin
Các phương pháp nhuộm này được sử dụng để phát hiện các kí sinh trùng trong ruột.
Phương pháp nhuộm Gomori-Wheatley được sử dụng để phát hiện microsporidia. Nó có thể bỏ sót trứng giun và ấu trùng và không xác định được một cách chắc chắn Cryptosporidium. Nấm và tế bào hấp thụ dạng vết.
Nhuộm sắt hematoxylin có thể phân biệt các tế bào, xâm nhập tế bào, và nhân tế bào. Trứng giun có thể nhuộm quá tối để có thể nhận dạng.