Trạng thái thực vật là tình trạng mất khả năng đáp ứng và nhận thức do rối loạn quá mức chức năng của các bán cầu não, nhưng không rối loạn chức năng của gian não và thân não nên còn bảo tồn được các phản xạ thực vật và vận động cũng như chu kỳ ngủ-thức. Bệnh nhân có thể có phản xạ phức tạp, bao gồm chuyển động mắt, ngáp, và các cử động tự động đối với các kích thích đau, nhưng không có biểu hiện nhận thức về bản thân hay môi trường. Trạng thái có ý thức tối thiểu, không giống như trạng thái thực vật, được đặc trưng bởi một số bằng chứng về nhận thức về bản thân và/hoặc môi trường, và bệnh nhân có xu hướng cải thiện. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị chủ yếu mang tính hỗ trợ. Tiên lượng đối với bệnh nhân có nhiều thiếu sót kéo dài thường dè dặt.
Trạng thái thực vật (đôi khi được gọi là hội chứng tỉnh táo không phản ứng) là một tình trạng mạn tính bảo tồn khả năng duy trì huyết áp (HA), hô hấp và chức năng tim chứ không phải chức năng nhận thức. Các chức năng của vùng dưới đồi, hành não vẫn còn nguyên vẹn để hỗ trợ chức năng tim phổi và tự chủ đủ để tồn tại nếu chăm sóc y tế và điều dưỡng đầy đủ. Vỏ não bị tổn thương nghiêm trọng (làm mất chức năng nhận thức), nhưng hệ thống kích hoạt cấu tạo lưới (RAS) vẫn hoạt động (làm cho bệnh nhân vẫn thức được). Các phản xạ của trung não và cầu não có thể có hoặc không. Bệnh nhân thường không có nhận thức về bản thân và chỉ tương tác với môi trường thông qua phản xạ. Có thể xuất hiện hoạt động của cơn động kinh trên điện não nhưng trên lâm sàng không thể hiện rõ.
Theo kinh điển, một trạng thái thực vật kéo dài > 1 tháng được coi là trạng thái thực vật dai dẳng. (Tuy nhiên, các khoảng thời gian khác đã được đề xuất, đôi khi tùy thuộc vào nguyên nhân.) (1) Tuy nhiên, chẩn đoán trạng thái thực vật dai dẳng không có nghĩa là khuyết tật vĩnh viễn, vì trong những trường hợp rất hiếm (ví dụ: sau chấn thương sọ não), bệnh nhân có thể cải thiện, đạt đến trạng thái ý thức tối thiểu hoặc mức độ ý thức cao hơn.
Những nguyên nhân phổ biến nhất của trạng thái thực vật và trạng thái có ý thức tối thiểu là
Thiếu oxy não lan tỏa
Tuy nhiên, bất kỳ bệnh lý nào dẫn đến tổn thương não đều có thể gây ra trạng thái thực vật. Thông thường, một trạng thái thực vật xảy ra bởi vì chức năng của thân não và gian não hồi phục lại sau khi hôn mê, nhưng chức năng vỏ não thì không.
Trong trạng thái có ý thức tối thiểu, không giống như trạng thái thực vật, có bằng chứng cho thấy bệnh nhân nhận biết được bản thân và/hoặc môi trường của họ. Bệnh nhân cũng có khuynh hướng cải thiện (ý thức dần dần trở nên tỉnh hơn), nhưng sự cải thiện còn hạn chế. Trạng thái này có thể là dấu hiệu chỉ báo đầu tiên của tổn thương não hoặc có thể nối tiếp trạng thái thực vật khi người ta hồi phục được một số chức năng. Bệnh nhân có thể chuyển đổi giữa trạng thái thực vật và trạng thái tỉnh táo tối thiểu, đôi khi mất nhiều năm sau tổn thương não ban đầu.
Tài liệu tham khảo chung
1. Quiñones-Ossa GA, Durango-Espinosa YA, Janjua T, et al: Persistent vegetative state: an overview. Egypt J Neurosurg 36:9, 2021 doi: 10.1186/s41984-021-00111-3
Triệu chứng và Dấu hiệu
Trạng thái thực vật
Bệnh nhân ở trạng thái thực vật không có bằng chứng về nhận thức bản thân hoặc môi trường và không thể tương tác với người khác. Mất các đáp ứng có định hướng với những kích thích từ bên ngoài, cũng như mất khả năng hiểu và biểu đạt ngôn ngữ.
Những điều sau đây biểu hiện ở bệnh nhân bị trạng thái thực vật:
Các dấu hiệu của sự toàn vẹn của cấu tạo lưới (ví dụ, mở mắt) và thân não (ví dụ:đồng tử có phản ứng, phản xạ mắt não)
Chu kỳ ngủ- thức, không nhất thiết phản ánh một nhịp sinh học cụ thể cũng không liên quan đến môi trường
Các phản xạ thân não phức tạp hơn, bao gồm ngáp, nhai, nuốt, và ít gặp hơn là tình trạng phát ra các âm thanh từ hầu họng
Đôi khi có những phản xạ thức tỉnh và giật mình (ví dụ, những âm thanh lớn hoặc đèn nhấp nháy có thể khiến mắt mở)
Đôi khi có nước mắt
Đôi khi xuất hiện một nụ cười hoặc cau mày
Các chuyển động mắt liên hợp (hai mắt di chuyển cùng một hướng), tự phát - thường chuyển động chậm, vận tốc không đổi, và không có các chuyển động giật cục
Các chuyển động của mắt tự phát có thể bị hiểu nhầm là sự nhìn theo có chủ ý và có thể được các thành viên trong gia đình hiểu nhầm là bằng chứng về nhận thức.
Bệnh nhân không thể phản ứng với kích thích đe dọa thị giác và không thể làm theo lệnh. Các chi có thể di chuyển, nhưng các phản ứng vận động có mục đích duy nhất là các vận động nguyên thủy (ví dụ, nắm chặt một đồ vật khi vật đó chạm vào tay). Đau thường gây ra đáp ứng vận động (thường gây ra tư thế mất vỏ hoặc mất não) nhưng không có động tác né tránh có chủ ý. Bệnh nhân đại tiểu tiện không tự chủ. Thần kinh sọ và phản xạ tủy thường được bảo tồn.
Hiếm khi, hoạt động của não, được phát hiện bằng MRI chức năng hoặc điện não đồ (EEG), cho thấy phản ứng đối với các câu hỏi và mệnh lệnh mặc dù không có phản ứng hành vi (ý thức ẩn) (1, 2). Mức độ nhận thức thực tế của bệnh nhân chưa được biết. Ở hầu hết các bệnh nhân có các hoạt động não như vậy, trạng thái thực vật thường do tổn thương não sau chấn thương, không phải là bệnh não do thiếu oxy.
Trạng thái có ý thức tối thiểu
Các biểu hiện gián đoạn của sự tương tác có ý nghĩa với môi trường được bảo tồn. Bệnh nhân ở trạng thái có ý thức tối thiểu có thể thực hiện những điều sau đây:
Thiết lập sự liên hệ bằng mắt
Nắm bắt đồ vật có chủ ý
Đáp ứng với các mệnh lệnh một cách rập khuôn
Trả lời với cùng một từ
Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng
1. Owen AM, Coleman MR, Boly M, et al: Detecting awareness in the vegetative state. Science 313 (5792):1402, 2006. doi: 10.1126/science.1130197
2. Monti MM, Rosenberg M, Finoia P, Kamau E, Pickard JD, Owen AM: Thalamo-frontal connectivity mediates top-down cognitive functions in disorders of consciousness. Neurology 84(2):167–173, 2015 doi:10.1212/WNL.0000000000001123
Chẩn đoán
Tiêu chuẩn lâm sàng sau khi quan sát đầy đủ
Chẩn đoán hình ảnh thần kinh
Trạng thái thực vật được đặc trưng bằng các biểu hiện lâm sàng (ví dụ, không có hoạt động có mục đích hay hiểu) cộng với các dấu hiệu của sự toàn vẹn cấu tạo lưới. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng. Tuy nhiên, chẩn đoán hình ảnh thần kinh được chỉ định để loại trừ các rối loạn có thể điều trị được.
Trạng thái thực vật phải được phân biệt với trạng thái có ý thức tối thiểu. Cả hai trạng thái này có thể là vĩnh viễn hay tạm thời, và khám thực thể có thể không phân biệt được sự khác biệt giữa hai trạng thái này. Cần quan sát đầy đủ. Nếu quan sát quá ngắn thì có thể bỏ qua bằng chứng về nhận thức. Một số bệnh nhân bị bệnh Parkinson nặng được chẩn đoán sai là nằm trong trạng thái thực vật.
CT hoặc MRI có thể phân biệt nhồi máu não, xuất huyết não, và khối choán chỗ gây tổn thương vỏ não hoặc thân não. Chụp mạch cộng hưởng từ có thể được sử dụng để hình dung mạch máu não sau khi loại trừ xuất huyết não. Phim MRI khuếch tán đang trở thành phương pháp chấn đoán hình ảnh được ưa dùng để theo dõi sự thay đổi do thiếu máu cục bộ xảy ra ở não.
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET), MRI chức năng và chụp cắt lớp phát xạ đơn photon (SPECT) có thể được sử dụng để đánh giá chức năng não (chứ không phải giải phẫu não). Nếu nghi ngờ chẩn đoán trạng thái thực vật dai dẳng, nên thực hiện chụp PET, SPECT hoặc MRI chức năng. Trong một số trường hợp, các kiểm tra này có thể cho biết liệu các bộ phận của não, chẳng hạn như vỏ não, vẫn hoạt động ngay cả khi nó không biểu hiện rõ trong quá trình khám lâm sàng.
EEG rất hữu ích trong việc đánh giá rối loạn chức năng vỏ não và xác định hoạt động chưa rõ ràng của cơn động kinh.
Điều trị
Chăm sóc hỗ trợ
Chăm sóc hỗ trợ là trọng tâm điều trị cho bệnh nhân ở trạng thái thực vật hoặc trạng thái có ý thức tối thiểu; nó phải bao gồm những điều sau đây:
Phòng ngừa các biến chứng cơ thể do bất động (ví dụ, viêm phổi, nhiễm khuẩn tiết niệu, bệnh huyết khối tắc mạch)
Cung cấp dinh dưỡng tốt
Thực hiện vật lý trị liệu để ngăn ngừa sự co rút chi
Trạng thái thực vật không có điều trị đặc hiệu. Các quyết định về chăm sóc duy trì cuộc sống cần bao gồm các cơ quan dịch vụ xã hội, ủy ban đạo đức của bệnh viện, và các thành viên trong gia đình. Việc điều trị duy trì cho bệnh nhân, đặc biệt là những người không có chỉ thị trước để đưa ra quyết định về việc chấm dứt điều trị, trong tình trạng thực vật kéo dài sẽ đặt ra các câu hỏi về đạo đức và các câu hỏi khác (ví dụ: sử dụng nguồn lực).
Hầu hết các bệnh nhân trong trạng thái có ý thức tối thiểu không đáp ứng với các phương pháp điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, điều trị bằng zolpidem (1), apomorphine (2) hoặc amantadine (3) có thể dẫn đến cải thiện khả năng đáp ứng thần kinh miễn là tiếp tục dùng thuốc.
Ngày càng có nhiều nghiên cứu đang đánh giá tác động của việc cung cấp các biện pháp can thiệp bằng âm nhạc trong quá trình rối loạn ý thức (4). Một số nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp âm nhạc có thể dẫn đến các hiệu ứng hành vi tích cực và trở lại các phản ứng sinh lý bình thường. Kết quả nên được giải thích một cách thận trọng vì nghiên cứu trong lĩnh vực này cho đến nay vẫn còn hạn chế.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Du B, Shan A, Zhang Y, et al: Zolpidem arouses patients in vegetative state after brain injury: Quantitative evaluation and indications. Am J Med Sci 347 (3):178–182, 2014 doi: 10.1097/MAJ.0b013e318287c79c
2. Fridman EA, Krimchansky BZ, Bonetto M, et al: Continuous subcutaneous apomorphine for severe disorders of consciousness after traumatic brain injury. Brain Inj 24 (4):636–641, 2010. doi: 10.3109/02699051003610433
3. Gao Y, Zhang Y, Li Z, Ma L, Yang J. Persistent vegetative state after severe cerebral hemorrhage treated with amantadine: A retrospective controlled study. Medicine (Baltimore). 2020;99(33):e21822. doi:10.1097/MD.0000000000021822
4. Li X, Li C, Hu N, Wang T: Music interventions for disorders of consciousness: A systematic review and meta-analysis. J Neurosci Nurs 52(4): 146–151, 2020 doi: 10.1097/JNN.0000000000000511
Tiên lượng
Trạng thái thực vật
Tiên lượng thay đổi phần nào theo nguyên nhân và thời gian tồn tại của trạng thái thực vật. Tiên lượng có thể tốt hơn nếu nguyên nhân là rối loạn chuyển hóa có thể điều trị được (ví dụ bệnh não do ngộ độc) hơn là nguyên nhân chết tế bào thần kinh do tình trạng thiếu oxy và thiếu máu hoặc rối loạn nặng khác. Ngoài ra, bệnh nhân trẻ tuổi có thể phục hồi chức năng vận động nhiều hơn bệnh nhân lớn tuổi hơn nhưng nhận thức, hành vi hoặc nói không phục hồi nhiều hơn.
Phục hồi từ trạng thái thực vật phụ thuộc vào nguyên nhân. Khó có khả năng sau 1 tháng tổn thương não không phải do chấn thương và sau 12 tháng nếu tổn thương não không do chấn thương.
Ngay cả khi một số có phục hồi sau những khoảng thời gian này, nhưng hầu hết bệnh nhân đều bị tàn tật nghiêm trọng. Hiếm khi cải thiện xảy ra muộn; sau 3 năm đến 5 năm, rất ít bệnh nhân (ví dụ: khoảng 3% đến 5%) (1) phục hồi được khả năng giao tiếp và hiểu, nhưng số bệnh nhân có thể sống độc lập thậm chí còn ít hơn; không có bệnh nhân nào lấy lại được chức năng bình thường.
Nếu trạng thái thực vật vẫn kéo dài, hầu hết bệnh nhân chết trong vòng 6 tháng sau tổn thương não ban đầu. Nguyên nhân thường là nhiễm trùng phổi, nhiễm khuẩn tiết niệu, hoặc suy đa tạng, hoặc tử vong có thể đột ngột và không rõ nguyên nhân. Đối với phần lớn thời gian còn lại, tuổi thọ trung bình là khoảng 2 năm đến 5 năm (1). Một vài bệnh nhân sống được thêm vài chục năm.
Trạng thái có ý thức tối thiểu
Hầu hết bệnh nhân có xu hướng hồi phục ý thức nhưng ở một mức độ giới hạn tùy thuộc vào thời gian tồn tại của trạng thái có ý thức tối thiểu. Thời gian càng kéo dài, cơ hội bệnh nhân hồi phục chức năng của vỏ não tốt hơn càng ít. Tiên lượng có thể tốt hơn nếu nguyên nhân là chấn thương sọ não.
Hiếm khi, bệnh nhân lấy lại sự tỉnh táo nhưng bị hạn chế nhận thức sau nhiều năm hôn mê, được các phương tiện truyền thông gọi là sự bừng tỉnh.
Tài liệu tham khảo về tiên lượng bệnh
1. Baricich A, de Sire A, Antoniono E, et al. Recovery from vegetative state of patients with a severe brain injury: a 4-year real-practice prospective cohort study. Funct Neurol. 2017;32(3):131-136. doi:10.11138/fneur/2017.32.3.131
Những điểm chính
Trạng thái thực vật đặc trưng bởi mất đáp ứng và nhận thức do rối loạn nặng chức năng của các bán cầu não, chức năng của thân não không thay đổi, và đôi khi biểu hiện giống như còn nhận thức mặc dù không có ý thức.
Trạng thái có ý thức tối thiểu khác với trạng thái thực vật ở chỗ bệnh nhân đó có một số tương tác với môi trường và có xu hướng cải thiện theo thời gian.
Chẩn đoán đòi hỏi phải loại trừ các bệnh lý khác và thường phải theo dõi lâu dài, nhất là để phân biệt trạng thái thực vật, trạng thái có ý thức tối thiểu, và bệnh Parkinson.
Tiên lượng có xu hướng kém, nhất là đối với bệnh nhân ở trạng thái thực vật.
Điều trị chủ yếu mang tính hỗ trợ.