Tổng quan các rối loạn nội tiết

TheoWilliam F. Young, Jr, MD, MSc, Mayo Clinic College of Medicine
Xem xét bởiGlenn D. Braunstein, MD, Cedars-Sinai Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 2 2025

Rối loạn nội tiết có thể là kết quả của

  • Rối loạn chức năng bắt nguồn từ chính tuyến nội tiết ngoại vi (rối loạn sơ cấp)

  • Sự kém kích thích của tuyến yên (rối loạn thứ phát) cho dù do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hoặc do vùng dưới đồi bị kích thích kém tuyến yên

  • Sự kích thích quá mức của tuyến yên (rối loạn thứ phát) cho dù là do rối loạn chức năng tuyến yên nội tại hoặc sự kích thích quá mức của tuyến yên bởi vùng dưới đồi

  • Hiếm khi, do phản ứng bất thường của mô đối với các hormone (thường là giảm chức năng).

Các rối loạn có thể dẫn đến sự sản sinh quá mức hormone (tăng chức năng) hoặc không đủ hormone (giảm chức năng).

(Xem thêm Tổng quan về hệ thống nội tiết.)

Cường năng nội tiết

Rối loạn chức năng của các tuyến nội tiết có thể là do tuyến yên bị kích thích quá mức cho dù là do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hay do vùng dưới đồi bị kích thích tuyến yên. Cường năng của tuyến nội tiết có thể do tuyến yên bị kích thích quá mức nhưng phổ biến nhất là do tuyến nội tiết đó quá sản hoặc tân sinh. Trong một số trường hợp, các loại ung thư từ các mô khác có thể sản sinh ra hormone (sản sinh hormone ngoại bào).

Sự dư thừa hormone cũng có thể do sử dụng hormone ngoại sinh. Trong một số trường hợp, bệnh nhân dùng các sản phẩm không kê đơn có chứa hormone và có thể không biết hoặc không nói với thầy thuốc.

Tồn tại trường hợp mô tăng nhạy cảm với hormon. Các kháng thể có thể kích thích các tuyến nội tiết ngoại vi, ví dụ như cường giáp do Bệnh Graves (Basedow). Nếu một tuyến nội tiết ngoại vi bị rối loạn hoạt động, nó có thể nhanh chóng giải phóng hormone được lưu trữ (ví dụ, hormone tuyến giáp được giải phóng trong bệnh viêm tuyến giáp bán cấp).

Các khiếm khuyết về enzym trong quá trình tổng hợp hormone nội tiết ngoại vi có thể dẫn đến sản sinh quá mức các hormone gần vị trí tắc nghẽn, như trong chứng tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh.

Việc sản sinh quá mức một loại hormone nào đó cũng có thể xảy ra như một phản ứng thích hợp với tình trạng bệnh.

Suy giảm chức năng nội tiết

Sự suy giảm chức năng của một tuyến nội tiết có thể do tuyến yên bị kích thích dưới mức cho dù là do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hay do vùng dưới đồi bị kích thích kém tuyến yên.

Suy giảm chức năng xuất phát từ tuyến ngoại biên có thể là do các rối loạn bẩm sinh hoặc mắc phải (bao gồm bệnh tự miễn, khối u, nhiễm trùng, bệnh mạch máu, và ngộ độc).

Các rối loạn di truyền gây ra suy tuyến nội tiết có thể là do mất một gen hoặc do sản sinh một hormone bất thường. Khi tuyến nội tiết ngoại vi bị suy làm tuyến yên tăng sản sinh hormon; do vậy lại làm tăng sinh tuyến nội tiết ngoại vi đó. Ví dụ, giảm tổng hợp hormone tuyến giáp làm tăng sản sinh hormone kích thích tuyến giáp (TSH) gây ra bướu cổ.

Một số hormone cần chuyển đổi sang dạng hoạt hóa sau khi bài tiết ra từ tuyến nội tiết ngoại vi. Một số bệnh lý có thể ngăn chặn bước này (ví dụ: bệnh thận có thể ức chế sản sinh dạng hoạt động của vitamin D). Các kháng thể đối với hormone lưu hành hoặc thụ thể của nó có thể cản trở khả năng của hormone gắn kết với thụ thể của nó.

Bệnh tật hoặc thuốc có thể làm tăng tốc độ thanh thải hormone. Các chất lưu hành cũng có thể cản trở các chức năng của hormon. Những bất thường của thụ thể hoặc ở những nơi khác trong mô ngoại vi cũng có thể gây giảm chức năng của tuyến nội tiết.

Xét nghiệm về rối loạn nội tiết

Bởi vì các triệu chứng rối loạn nội tiết có thể bắt đầu một cách lặng lẽ và không đặc hiệu, việc phát hiện triệu chứng lâm sàng thường muộn sau nhiều tháng hoặc nhiều năm. Vì lý do này, chẩn đoán sinh hóa thường rất cần thiết; nó thường đòi hỏi phải đo nồng độ trong máu của hormone các nội tiết ngoại vi, hormone tuyến yên, hoặc cả hai.

Bởi vì hầu hết các hormone có nhịp sinh học, các phép đo cần được thực hiện vào một thời gian nhất định trong ngày. Hormone thay đổi trong thời gian ngắn (ví dụ: hormone LH) đòi hỏi phải có được 3 hoặc 4 giá trị trên 1 hoặc 2 giờ hoặc sử dụng một mẫu máu trộn lẫn. Hormone thay đổi theo từng tuần (ví dụ: estrogen) đòi hỏi lấy các giá trị riêng biệt cách nhau 1 tuần.

Định lượng hormone trong máu

Hormone tự do hoặc có hoạt tính sinh học (ví dụ: hormone không bị gắn với một chất nào đó liên kết với nó) thường được cho là dạng hoạt động. Hormone tự do hoặc có khả dụng sinh học được đo bằng phương pháp thẩm phân cân bằng, siêu lọc hoặc phương pháp chiết dung môi để tách hormone tự do và hormone gắn kết với albumin khỏi globulin gắn kết. Những phương pháp này có thể tốn kém và mất thời gian. Các xét nghiệm hormone tự do có hoạt tính tương đồng và cạnh tranh, mặc dù thường được sử dụng trong thương mại, nhưng không phải lúc nào cũng chính xác và không nên sử dụng.

Ước tính hormone trong máu

Các nồng độ hormone tự do có thể tính gián tiếp bằng cách đo nồng độ của protein liên kết và sử dụng chúng để tính tổng lượng hormone trong huyết thanh. Tuy nhiên, các phương pháp gián tiếp sẽ không chính xác nếu khả năng liên kết với protein của hormone đã bị thay đổi (ví dụ: do rối loạn).

Trong một số trường hợp, các ước tính gián tiếp khác được sử dụng. Ví dụ, do hormone tăng trưởng (GH) có thời gian bán thải trong huyết thanh ngắn và rất khó phát hiện, yếu tố tăng trưởng 1 giống insulin(IGF-1), được sản sinh để đáp ứng với GH, thường được đo như một chỉ số hoạt động của GH. Nồng độ hormone có hoạt tính sinh học thường là đo trong máu.

Ngoài ra, có thể đo nồng độ hormone trong nước tiểu (ví dụ: cortisol tự do để chẩn đoán Bệnh Cushing) hoặc nước bọt.

Các xét nghiệm động học

Trong nhiều trường hợp, xét nghiệm động học là cần thiết. Vì vậy, trong trường hợp các cơ quan giảm chức năng, có thể cần làm test kích thích (ví dụ, Kích thích ACTH). Trong trường hợp cường chức năng, cần làm test ức chế (ví dụ, ức chế dexamethasone đàn áp).

Điều trị rối loạn nội tiết

  • Thay thế hormone thiếu

  • Kiềm chế sản sinh hormone quá mức

Rối loạn dạng giảm chức năng thường được điều trị bằng cách thay thế hormone nội tiết ngoại vi bất kể khiếm khuyết là nguyên phát hay thứ phát (ngoại trừ hormone tăng trưởng, trong đó hormone thay thế tuyến yên được sử dụng để điều trị tình trạng thiếu hụt hormone tăng trưởng). Nếu có tình trạng kháng hormone, có thể sử dụng thuốc làm giảm tình trạng kháng hormone (ví dụ: metformin hoặc thiazolidinedione cho bệnh tiểu đường loại 2). Thỉnh thoảng, người ta sử dụng thuốc kích thích hormone (ví dụ: sulfonylurea để kích thích tiết insulin).

Xạ trị, phẫu thuật và thuốc ức chế sản sinh hormone được sử dụng để điều trị rối loạn dạng tăng chức năng. Trong một số trường hợp, thuốc đối kháng thụ thể được sử dụng (ví dụ: pegvisomant là thuốc đối kháng thụ thể hormone tăng trưởng được sử dụng ở những bệnh nhân bị u tuyến yên tiết hormone tăng trưởng).

Nội tiết học người cao tuổi

Hormone thay đổi dần theo số tuổi.

  • Hầu hết nồng độ các hormone giảm.

  • Một số mức độ hormone vẫn ổn định.

  • Một số mức hormone tăng lên.

Nhiều thay đổi liên quan đến lão hóa tương tự như ở những bệnh nhân bị thiếu hụt hormone. Một số bằng chứng cho thấy thay thế một số hormone ở người cao tuổi có thể cải thiện các kết cục chức năng (ví dụ sức mạnh cơ bắp, mật độ khoáng xương) nhưng vẫn chưa có bằng chứng về những ảnh hưởng đối với tử vong. Trong một số trường hợp, thay thế nội tiết tố có thể có hại, vì làm tăng nguy cơ ung thư vú khi mãn kinh oestrogenprogesterone liệu pháp.

Giả thuyết cạnh tranh cho rằng sự suy giảm nồng độ hormone liên quan đến tuổi tác là do quá trình trao đổi chất của tế bào diễn ra chậm lại mang tính bảo vệ chứ không phải là do thiếu hụt hormone thực sự. Khái niệm này dựa trên tỷ lệ lý thuyết sống của lão hóa (tức là nhanh hơn tốc độ trao đổi chất của cơ thể, nhanh hơn nó chết). Khái niệm này dường như được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về tác động của chế độ ăn kiêng. Hạn chế làm giảm nồng độ hormone kích thích quá trình trao đổi chất, do đó làm chậm tốc độ trao đổi chất; hạn chế cũng kéo dài tuổi thọ ở loài gặm nhấm (1).

Hormone giảm tuổi cụ thể giảm

Mức độ hormone giảm khi lão hóa bao gồm

  • Dehydroepiandrosterone (DHEA) và DHEA sulfate

  • Estrogen

  • Hormone tăng trưởng và yếu tố tăng trưởng giống insulin 1

  • Melatonin

  • Pregnenolone

  • Testosterone

Dehydroepiandrosterone (DHEA) và hàm lượng sulfate giảm đáng kể theo độ tuổi. Mặc dù lạc quan về vai trò của việc bổ sung DHEA ở người cao tuổi, hầu hết các thử nghiệm có kiểm soát đều không cho thấy bất kỳ lợi ích lớn nào (2, 3).

Pregnenolone là tiền thân của tất cả các hormone steroid được biết đến. Nồng độ chất này cũng suy giảm theo tuổi giống DHEA. Các nghiên cứu trong những năm 1940 đã chứng minh độ an toàn và lợi ích của thuốc này đối với những người bị viêm khớp, nhưng các nghiên cứu bổ sung không cho thấy bất kỳ tác dụng có lợi nào đối với trí nhớ và cơ lực (4).

Nồng độ hormone tăng trưởng (GH) và hormone nội tiết ngoại vi (yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 [IGF-1]) giảm theo độ tuổi. Việc thay thế GH ở người cao tuổi đôi khi làm tăng khối lượng cơ nhưng không làm tăng cơ lực (mặc dù có thể làm tăng cơ lực ở những người suy dinh dưỡng). Tác dụng phụ (ví dụ hội chứng ống cổ tay, chứng đau khớp, giữ nước) rất phổ biến. GH có thể có vai trò trong điều trị ngắn hạn đối với một số bệnh nhân lớn tuổi bị suy dinh dưỡng, nhưng ở những bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng, GH làm tăng tử vong. Chất kích thích tiết kích thích sản sinh GH sinh lý có thể cải thiện lợi ích và giảm nguy cơ.

Nồng độ melatonin, một hormone được sản sinh bởi tuyến tùng, cũng giảm theo tuổi. Sự suy giảm này đóng một vai trò quan trọng trong việc mất nhịp sinh học theo tuổi.

Mãn kinh oestrogen liệu pháp được thảo luận dưới điều trị mãn kinh. Thay thế Testosterone ở đàn ông lớn tuổi được thảo luận ở mục khác.

Các hormone cụ thể không thay đổi trong quá trình lão hóa

Mức độ hormone duy trì ổn định khi một người già đi bao gồm

  • Hormone kích thích vỏ thượng thận (cơ bản)

  • Cortisol (cơ bản)

  • 1,25-Dihydroxycholecalciferol

  • Estradiol (ở nam giới)

  • Insulin (đôi khi tăng lên)

  • Hormone kích thích tuyến giáp (TSH)

  • Thyroxine (tetraiodothyronine, hoặc T4)

Hormone liên quan đến tuổi cụ thể tăng lên

Hormone tăng liên quan đến lão hóa có liên quan đến khiếm khuyết thụ thể hoặc khiếm khuyết thụ thể sau, dẫn đến suy giảm chức năng. Các kích thích tố này bao gồm

  • Hormone vỏ thượng thận (ACTH – tăng phản ứng với corticotropin-làm giảm hormone)

  • Activin (ở nam giới)

  • Yếu tố lợi tiểu natri nhĩ

  • Cholecystokinin

  • Hormone kích thích nang trứng

  • Gonadotropins (ở phụ nữ)

  • Norepinephrine

  • Hormone cận giáp

  • Globulin liên kết hormone giới tính

  • Peptide vận mạch ở ruột

  • Vasopressin (cũng như mất nhịp sinh học của hormone)

Tài liệu tham khảo về lão hóa và nội tiết

  1. 1. Acosta-Rodríguez V, Rijo-Ferreira F, Izumo M, et al. Circadian alignment of early onset caloric restriction promotes longevity in male C57BL/6J mice. Science 2022;376(6598):1192-1202. doi:10.1126/science.abk0297

  2. 2. Baker WL, Karan S, Kenny AM. Effect of dehydroepiandrosterone on muscle strength and physical function in older adults: a systematic review. J Am Geriatr Soc 2011;59(6):997-1002. doi:10.1111/j.1532-5415.2011.03410.x

  3. 3. Pataky MW, Young WF, Nair KS. Hormonal and Metabolic Changes of Aging and the Influence of Lifestyle Modifications. Mayo Clin Proc 2021;96(3):788-814. doi:10.1016/j.mayocp.2020.07.033

  4. 4. Vallée M, Mayo W, Le Moal M. Role of pregnenolone, dehydroepiandrosterone and their sulfate esters on learning and memory in cognitive aging. Brain Res Brain Res Rev 2001;37(1-3):301-312. doi:10.1016/s0165-0173(01)00135-7