Viêm tủy ngang cấp

TheoMichael Rubin, MDCM, New York Presbyterian Hospital-Cornell Medical Center
Xem xét bởiMichael C. Levin, MD, College of Medicine, University of Saskatchewan
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 3 2025
v1046696_vi
Viêm tủy ngang cấp là tình trạng viêm cấp ở chất xám và trắng trong một hoặc nhiều đoạn tủy sống liền kề, thường là đoạn tủy ngực. Nguyên nhân bao gồm bệnh đa xơ cứng, rối loạn phổ viêm tủy thị thần kinh (NMOSD), bệnh liên quan đến kháng thể glycoprotein myelin oligodendrocyte (MOGAD), nhiễm trùng, viêm tự miễn hoặc viêm sau nhiễm trùng, viêm mạch và một số loại thuốc hoặc ma túy bất hợp pháp. Các triệu chứng bao gồm thiếu hụt vận động, cảm giác, và thăng bằng hai bên dưới mức tổn thương. Chẩn đoán thường dựa vào MRI, xét nghiệm dịch não tủy và xét nghiệm máu. Corticosteroid đường tĩnh mạch và trao đổi huyết tương có thể hữu ích trong giai đoạn sớm. Nếu không, điều trị bằng các biện pháp hỗ trợ và điều trị bệnh lý căn nguyên.

(Xem thêm Tổng quan về Rối Loạn Tủy sống.)

Viêm tủy cắt ngang cấp tính thường là do bệnh đa xơ cứng; tuy nhiên, bệnh có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị viêm mạch, lupus ban đỏ hệ thống (SLE), hội chứng kháng phospholipid, các bệnh tự miễn dịch khác, nhiễm mycoplasma, bệnh Lyme, giang mai, bệnh lao (TB), COVID-19viêm não màng não do vi rút hoặc ở những bệnh nhân dùng amphetamine, heroin đường tĩnh mạch, thuốc chống ký sinh trùng hoặc thuốc chống nấm. Viêm tủy cắt ngang xảy ra cùng với viêm dây thần kinh thị giác trong rối loạn phổ viêm tủy thị thần kinh (NMOSD) (bệnh Devic), trước đây được coi là một biến thể của bệnh đa xơ cứng nhưng hiện được coi là một bệnh lý riêng biệt.

Cơ chế gây viêm tủy cắt ngang thường chưa được biết rõ, nhưng một số trường hợp xảy ra sau nhiễm vi rút hoặc tiêm vắc xin, cho thấy phản ứng qua trung gian miễn dịch. Viêm thường có xu hướng lan tỏa tại một hoặc nhiều mức tủy, ảnh hưởng đến tất cả các chức năng tủy sống.

Các triệu chứng và dấu hiệu của viêm tủy cắt ngang cấp tính

Các triệu chứng của viêm tủy ngang cấp tính có thể bao gồm đau ở cổ, lưng hoặc đầu. Bệnh nhân có cảm giác đè nặng, ép chặt tại vùng ngực hoặc bụng, kèm theo yếu, tê và cảm giác kiến bò tại bàn chân và cẳng chân. Triệu chứng tiểu khó hết bãi xuất hiện trong vòng từ vài giờ đến vài ngày. Tình trạng thiếu hụt có thể tiến triển trong nhiều ngày nữa thành bệnh lý tủy cảm giác vận động cắt ngang hoàn toàn, gây liệt nửa người nếu tổn thương nằm dưới mức tủy sống cổ (tức là dưới C7), liệt tứ chi nếu tổn thương nằm ở tủy sống cổ cao (tức là ở hoặc trên C5), mất cảm giác bên dưới tổn thương, bí tiểu và đại tiện không tự chủ. Đôi khi, bệnh nhân không có rối loạn cảm giác tư thế và cảm giác rung.

Viêm tủy cắt ngang đôi khi tái phát ở bệnh nhân xơ cứng rải rác, SLE, hoặc hội chứng kháng phospholipid.

Chẩn đoán viêm tủy cắt ngang cấp tính

  • MRI và dịch não tủy (CSF)

  • Các xét nghiệm khác để chẩn đoán nguyên nhân có thể điều trị được

Chẩn đoán viêm tủy cắt ngang cấp tính được gợi ý bằng bệnh lý tủy vận động cơ cắt ngang có thâm hụt đoạn. Hội chứng Guillain-Barré có thể được phân biệt vì nó không khu trú thành một đoạn cột sống cụ thể.

Chẩn đoán đòi hỏi chụp MRI và làm xét nghiệm dịch não tủy. Chụp MRI thường cho thấy tình trạng sưng tủy nếu có viêm tủy cắt ngang, thường giới hạn ở 1 đoạn hoặc 2 đoạn và có thể giúp loại trừ các nguyên nhân có thể điều trị khác gây rối loạn chức năng tủy sống (ví dụ: chèn ép tủy sống). Dịch não tủy thường chứa bạch cầu đơn nhân, lượng protein tăng nhẹ và chỉ số IgG cao (bình thường, 0,85).

Xét nghiệm tìm chất chỉ điểm của bệnh viêm tủy thị thần kinh IgG (NMO-IgG) – một kháng thể tự miễn nhắm vào protein kênh nước của tế bào hình sao aquaporin-4 – có tính đặc hiệu cao và giúp phân biệt rối loạn phổ viêm tủy thị thần kinh (NMOSD) với bệnh đa xơ cứng. Tất cả bệnh nhân cũng được xét nghiệm tự kháng thể IgG kháng MOG, qua đó có thể giúp xác định bệnh nhân mắc bệnh kháng thể glycoprotein myelin oligodendrocyte (MOGAD).

Các xét nghiệm tìm nguyên nhân có thể điều trị được bao gồm chụp X-quang ngực; PPD (dẫn xuất protein tinh khiết) để tìm bệnh lao; xét nghiệm huyết thanh tìm mycoplasma, bệnh Lyme, COVID-19 và HIV; tốc độ máu lắng (ESR) và/hoặc protein phản ứng C (CRP); kháng thể kháng nhân; và xét nghiệm dịch não tủy và xét nghiệm phòng thí nghiệm nghiên cứu bệnh hoa liễu trong máu (VDRL). Tiền sử có thể cho thấy thuốc hoặc ma túy bất hợp pháp là nguyên nhân.

Chẩn đoán phân biệt viêm tủy ngang cấp tính bao gồm các bệnh lý tủy ngang khác do thiếu hụt dinh dưỡng (ví dụ như thiếu vitamin B12, folate, kẽm hoặc đồng), suy mạch máu và các khối u nội tủy.

Chụp MRI não được thực hiện trong khuôn khổ của kiểm tra chẩn đoán để giúp xác định các nguyên nhân tiềm ẩn như đa xơ cứng hoặc NMOSD.

Điều trị viêm tủy ngang cấp tính

  • Điều trị nguyên nhân

  • Đôi khi sử dụng corticosteroid

Việc điều trị viêm tủy cắt ngang cấp tính tập trung vào nguyên nhân hoặc bệnh lý liên quan nếu xác định được nhưng chỉ mang tính hỗ trợ.

Trong các trường hợp tự phát, corticosteroid đường tĩnh mạch liều cao thường được dùng và đôi khi tiếp theo là trao đổi huyết tương vì nguyên nhân có thể là tự miễn dịch (1). Phác đồ này không đảm bảo hiệu quả chắc chắn.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Tisavipat N, Flanagan EP. Current perspectives on the diagnosis and management of acute transverse myelitis. Expert Rev Neurother. 2023;23(4):389-411. doi:10.1080/14737175.2023.2195095

Tiên lượng về viêm tủy cắt ngang cấp tính

Nhìn chung, bệnh tiến triển càng nhanh, tiên lượng càng nặng. Triệu chứng đau gợi ý tình trạng viêm nhiều. Một số dữ liệu cho thấy rằng khoảng một phần ba số bệnh nhân hồi phục, một phần ba vẫn còn yếu và buồn tiểu gấp và một phần ba phải nằm liệt giường và tiểu không tự chủ (1).

Bệnh đa xơ cứng cuối cùng phát triển ở khoảng 30% số bệnh nhân mà nguyên nhân ban đầu không rõ (2).

Tài liệu tham khảo về tiên lượng

  1. 1. Krishnan C, Kaplin AI, Pardo CA, Kerr DA, Keswani SC. Demyelinating disorders: update on transverse myelitis. Curr Neurol Neurosci Rep. 2006;6(3):236-243. doi:10.1007/s11910-006-0011-1

  2. 2. Monschein T, Ponleitner M, Bsteh G, et al. The presence of oligoclonal bands predicts conversion to multiple sclerosis in isolated myelitis. Sci Rep. 2024;14(1):24736. Xuất bản ngày 21 tháng 10 năm 2024. doi:10.1038/s41598-024-71315-4

Những điểm chính

  • Các bệnh tự miễn dịch và bệnh mất myelin, nhiễm trùng, thuốc hoặc ma túy bất hợp pháp có thể gây viêm các mô ở các đoạn tủy sống, gây ra viêm tủy cắt ngang, có thể tiến triển thành bệnh lý tủy cảm giác-vận động cắt ngang hoàn toàn.

  • Thực hiện chụp MRI tủy sống, phân tích dịch não tủy, xét nghiệm IgG bệnh viêm tủy thị thần kinh, kháng thể tự miễn IgG kháng MOG và các xét nghiệm khác để tìm nguyên nhân có thể điều trị được (ví dụ: nhiễm trùng).

  • Điều trị nguyên nhân nếu có, và nếu không có nguyên nhân rõ ràng, sử dụng corticosteroid và trao đổi huyết tương.