Migraine là chứng đau đầu nguyên phát, xuất hiện thành đợt. Triệu chứng thường kéo dài từ 4 đến 72 giờ và có thể trầm trọng. Đau thường ở một bên, kiểu mạch đập, nặng hơn khi gắng sức, kèm theo các triệu chứng như buồn nôn và nhạy cảm với ánh sáng, âm thanh hoặc mùi hôi. Aura xảy ra ở khoảng 25% bệnh nhân, thường là ngay trước cơn nhưng đôi khi xuất hiện sau khi đau đầu. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị bằng triptans, dihydroergotamine, thuốc chống nôn, thuốc giảm đau. Phác đồ phòng ngừa bao gồm điều chỉnh lối sống (ví dụ: thói quen ngủ hoặc chế độ ăn uống) và thuốc (ví dụ: thuốc chẹn beta, amitriptyline, topiramate, divalproex, các kháng thể đơn dòng).
(Xem thêm Cách tiếp cận với Bệnh nhân đau đầu.)
Dịch tễ học của đau nửa đầu
Migraine là nguyên nhân thường gặp nhất gây đau đầu tái diễn từ vừa đến nặng; tỷ lệ hiện mắc 1 năm là 18% đối với phụ nữ và 6% đối với nam giới ở Hoa Kỳ. Migraine phổ biến nhất bắt đầu trong giai đoạn dậy thì hoặc tuổi thanh niên, tăng giảm về tần suất và độ nặng trong những năm tiếp theo; Bệnh thường giảm đi sau 50 tuổi. Các nghiên cứu cho thấy có tính chất gia đình trong bệnh migraine.
Bằng chứng dựa trên việc đánh giá các cựu chiến binh trong cuộc xung đột Iraq và Afghanistan cho thấy chứng đau nửa đầu có thể thường tiến triển sau tổn thương não do chấn thương nhẹ.
Sinh lý bệnh của đau nửa đầu
Migraine được cho là hội chứng đau thần kinh mạch máu với sự thay đổi quá trình xử lý thông tin của các nơ ron thần kinh trung ương (kích hoạt các nhân của thân não, tăng khả năng kích thích của vỏ não và ức chế vỏ não lan tỏa) và sự tham gia của hệ thống thần kinh mạch máu (kích hoạt sự giải phóng neuropeptide, gây viêm đau trong các mạch nội sọ và màng cứng).
Nhiều tác nhân gây kích hoạt đau nửa đầu đã được xác định; chúng bao gồm:
Uống rượu vang đỏ
Bỏ bữa
Các kích thích hướng tâm quá mức (ví dụ như đèn nhấp nháy, mùi nặng)
Thời tiết thay đổi
Thiếu ngủ
Căng thẳng
Các yếu tố nội tiết, đặc biệt là kinh nguyệt
Một số thức ăn
Kích hoạt thực phẩm khác nhau từ người này sang người khác.
Chấn thương đầu, đau cổ, hoặc rối loạn chức năng khớp thái dương hàm đôi khi kích hoạt hoặc làm nặng thêm chứng migraine.
Nồng độ estrogen dao động là yếu tố kích hoạt migraine. Nhiều phụ nữ khởi phát chứng đau nửa đầu ở giai đoạn bắt đầu có kinh, các cơn đau dữ dội trong thời gian hành kinh (chứng đau nửa đầu kinh nguyệt) và trầm trọng hơn trong thời kỳ mãn kinh. Đối với hầu hết phụ nữ, đau nửa đầu giảm đi trong thời kỳ mang thai (nhưng đôi khi các cơn đau lại nặng hơn tam cá nguyệt thứ nhất hoặc thứ hai); nặng hơn sau khi sinh, khi nồng độ estrogen giảm nhanh.
Thuốc ngừa thai đường uống và các liệu pháp hormone khác thường kích hoạt hoặc làm trầm trọng thêm chứng đau nửa đầu và có liên quan đến chứng đột quỵ ở phụ nữ bị chứng migraine có aura.
Đau nửa đầu kèm liệt nửa người có tính gia đình, một thể hiếm gặp của đau nửa đầu, có liên quan đến các khiếm khuyết di truyền trên nhiễm sắc thể số 1, 2, và 19. Vai trò của các gen trong những thể phổ biến hơn của chứng migraine đang được nghiên cứu. Ở một số gia đình, kiểu hình của đau nửa đầu thay đổi đáng kể, gây đau đầu chủ yếu ở một số thành viên trong gia đình, chóng mặt ở những người khác, và liệt nửa người hoặc aura ở những người khác. Phát hiện này cho thấy đau nửa đầu thực sự có thể là một rối loạn toàn thân hơn và không chỉ là rối loạn đau đầu.
Các triệu chứng và dấu hiệu của đau nửa đầu
Thông thường, có tiền triệu (cảm giác thấy chứng đau nửa đầu chuẩn bị bắt đầu) báo hiệu các cơn đau. Tiền triệu có thể bao gồm thay đổi khí sắc, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, hoặc phối hợp.
Trong khoảng 25% bệnh nhân, aura xuất hiện trước các cơn đau. Aura là những bệnh lý thần kinh tạm thời có thể ảnh hưởng đến cảm giác, thăng bằng, sự phối hợp cơ, nói hoặc thị lực; kéo dài phút cho tới một giờ. Aura có thể tồn tại sau khi khởi phát đau đầu. Thông thường, aura liên quan tới các triệu chứng thị giác (rối loạn thị giác - ví dụ: ánh sáng lấp lóe hai mắt, các quầng sáng hồ quang, các đường zigzags sáng, ám điểm trung tâm). Di cảm và tê bì (thường bắt đầu ở một tay và lan đến mặt và cánh tay cùng bên), rối loạn ngôn ngữ và rối loạn chức năng thân não thoáng qua (gây ra chứng mất ngủ, nhầm lẫn, thậm chí là lú lẫn) ít gặp hơn so với aura thị giác. Một số bệnh nhân có aura kèm theo đau đầu ít hoặc không đau đầu.
Đau đầu thay đổi từ trung bình đến nặng, và các cơn kéo dài từ 4 giờ đến vài ngày, thường đỡ đi khi ngủ. Đau thường một bên nhưng có thể hai bên, thường gặp nhất ở vùng trán-thái dương và thường được mô tả đau kiểu mạch đập hoặc đau nhói.
Migrain không chỉ có đau đầu. Phối hợp với các triệu chứng như buồn nôn (và đôi khi nôn), sợ ánh sáng, sợ tiếng động và sợ mùi khó chịu. Bệnh nhân kể khó tập trung trong các cơn đau. Hoạt động thể lực thường làm nặng thêm cơn đau đầu migraine; sự ảnh hưởng này, cùng với việcsợ ánh sáng và tiếng động, làm cho hầu hết các bệnh nhân muốn nằm trong một căn phòng tối, yên tĩnh trong các đợt đau đầu. Các cơn trầm trọng có thể làm bệnh nhân tàn phế, phá vỡ cuộc sống gia đình và công việc.
Các cơn đau đầu biến thiên đáng kể về tần suất và độ nặng. Nhiều bệnh nhân có một vài thể đau đầu, bao gồm cả các cơn đau nhẹ không có buồn nôn hoặc sợ ánh sáng; Các cơn này có thể giống đau đầu căng thẳng nhưng là một cơn đau đầu migraine.
Đau nửa đầu mạn tính
Bệnh nhân bị chứng đau nửa đầu chu kỳ có thể tiến triển thành migraine mạn tính. Những bệnh nhân này có các cơn đau đầu ≥ 15 ngày/tháng. Bệnh lý đau đầu này được gọi là đau đầu hỗn hợp hoặc đau đầu phối hợp bởi vì nó có các đặc điểm của đau nửa đầu và đau đầu căng thẳng. Những cơn đau đầu này thường phát sinh trên bệnh nhân lạm dụng thuốc điều trị đau đầu cấp tính.
Các triệu chứng khác
Các dạng đau nửa đầu khác, hiếm gặp có thể gây ra những triệu chứng khác:
Đau nửa đầu có tiền triệu của thân não (trước đây được gọi là đau nửa đầu do động mạch nền) gây ra các dạng kết hợp chóng mặt, mất điều hòa, mất thị trường, rối loạn cảm giác, yếu khu trú và thay đổi mức độ ý thức.
Đau nửa đầu có liệt nửa người, có thể rời rạc hoặc có tính gia đình, gây liệt một bên.
Chẩn đoán đau nửa đầu
Đánh giá lâm sàng
Chẩn đoán đau nửa đầu dựa trên các triệu chứng đặc trưng và khám thực thể bình thường, bao gồm khám thần kinh đầy đủ.
Các biểu hiện cảnh báo gợi ý chẩn đoán khác (ngay cả ở những bệnh nhân đã biết bị đau nửa đầu) bao gồm:
Đau đạt đến cường độ đỉnh trong vòng vài giây hoặc ít hơn (đau đầu sét đánh)
Khởi phát sau 50 tuổi
Đau đầu gia tăng cường độ hoặc tần số trong vài tuần hoặc lâu hơn
Tiền sử ung thư (di căn não) hoặc bệnh lý suy giảm miễn dịch (ví dụ như nhiễm HIV, AIDS)
Sốt, dấu hiệu màng não, thay đổi trạng thái tinh thần, hoặc phối hợp
Thiếu sót thần kinh khu trú, kéo dài
Có sự thay đổi rõ ràng về kiểu đau đầu đã có trước đó
Bệnh nhân có các triệu chứng đặc trưng và không có dấu hiệu cảnh báo thì không cần làm xét nghiệm. Những bệnh nhân có các dấu hiệu cảnh báo thường cần phải kiểm tra, bao gồm cả chụp MRI và đôi khi chọc dò tủy sống.
Các lỗi chẩn đoán thông thường bao gồm:
Không nhận ra rằng đau đầu migrain thường gây ra đau hai bên và không phải lúc nào đau nhói giống miêu tả điển hình
Chẩn đoán nhầm đau nửa đầu migrain thành đau đầu do xoang hoặc đau mắt do triệu chứng thực vật và thị giác của chứng đau nửa đầu migrain
Luôn cho rằng bất kỳ cơn đau đầu nào ở những bệnh nhân đã có tiền sử migrain đều là một cơn migrain khác (cơn đau đầu sét đánh hoặc thay đổi kiểu đau đầu trước đây có thể cho thấy một bênh lý mới, có khả năng nghiêm trọng)
Nhầm lẫn migraine kèm theo aura với cơn thiếu máu thoáng qua, đặc biệt khi aura xuất hiện mà không đau đầu, ở người lớn tuổi
Chẩn đoán đau đầu như sét đánh là cơn đau đầu migraine vì triptan làm giảm cơn đau (triptan cũng có thể làm giảm đau đầu do xuất huyết dưới nhện)
Một số bệnh lý bất thường có thể biểu hiện giống đau đầu migrain với aura:
Bóc tách động mạch cảnh hoặc động mạch sống
Viêm mạch máu não
Bệnh Moyamoya
CADASIL (cerebral autosomal dominant arteriopathy with subcortical infarcts and leukoencephalopathy) Bệnh động mạch não di truyền tự thể trội gây nhồi máu dưới màng cứng và bệnh não chất trắng
MELAS (mitochondrial encephalopathy, lactic acidosis, and strokelike episodes-bệnh não ty lạp thể, nhiễm acid lactic, và các cơn đột quỵ)
Điều trị đau nửa đầu
Loại bỏ các yếu tố kích hoạt rõ ràng
Các kỹ thuật thư giãn, yoga hoặc các can thiệp hành vi
Đối với đau đầu nhẹ, dùng acetaminophen hoặc NSAID
Đối với các cơn đau đầu cấp tính, dùng triptans, lasmiditan, gepants, hoặc dihydroergotamine cùng với thuốc chống nôn đối vận với dopamine
Thiết bị điều hòa thần kinh để điều trị và phòng ngừa đợt cấp tính
Giải thích thấu đáo về bệnh lý này giúp bệnh nhân hiểu rằng mặc dù chứng đau đầu migrain không thể chữa khỏi hẳn, nhưng có thể kiểm soát được, giúp họ tham gia tích cực hơn trong điều trị.
Bệnh nhân được yêu cầu phải viết nhật ký các cơn đau đầu để ghi số lượng và thời gian của các cơn đau, các yếu tố kích hoạt và đáp ứng với điều trị. Phải loại trừ các yếu tố kích tích đã được xác định khi có thể. Tuy nhiên, việc loại bỏ các yếu tố kích hoạt có thể bị thực hiện quá mức.
Lựa chọn thuốc dùng để điều trị đau nửa đầu cấp tính dựa trên tần suất, thời gian và mức độ nặng của các cơn đau đầu. Có thể sử dụng thuốc giảm đau, thuốc chống nôn, triptans, lasmiditan, gepants (thuốc đối kháng thụ thể peptide [CGRP] liên quan đến gen calcitonin phân tử nhỏ), hoặc dihydroergotamine (1). Nếu bệnh nhân muốn tránh dùng thuốc hoặc nếu thuốc không hiệu quả, các phương pháp điều trị điều hòa thần kinh đôi khi có thể được sử dụng cho các cơn đau cấp tính và/hoặc phòng ngừa.
Bệnh nhân thường xuyên (ví dụ: > 2 ngày/tuần) sử dụng thuốc để điều trị các cơn đau nửa đầu cấp tính (đặc biệt là thuốc giảm đau có chứa butalbital, triptans, ergotamine hoặc opioid) cần phải được điều trị bằng thuốc dự phòng đau nửa đầu phối hợp với chương trình ngừng sử dụng thuốc giảm đau bị lạm dụng.
Bệnh nhân nên được khuyến khích để tránh các tác nhân kích thích, và các thầy thuốc lâm sàng khuyến cáo các can thiệp hành vi (phản hồi sinh học, quản lý stress, liệu pháp tâm lý) để kiểm soát migraine khi stress là yếu tố kích hoạt chính hoặc khi thuốc giảm đau đang bị lạm dụng.
Yoga có thể làm giảm tần suất và cường độ đau đầu; nó làm tăng trương lực phế vị và giảm sự giao cảm, do đó cải thiện sự cân bằng thần kinh. Các kỹ thuật thư giãn có thể làm giảm hoạt động của hệ thần kinh giao cảm, giảm căng cơ và thay đổi hoạt động của sóng não.
Đợt cấp
NSAID hoặc acetaminophen được sử dụng để điều trị cơn đau nhẹ và trung bình.
Nếu những loại thuốc này không hiệu quả, bác sĩ lâm sàng nên cân nhắc sử dụng triptans hoặc dihydroergotamine. Đáp ứng tốt với dihydroergotamine hoặc triptan không nên được hiểu có giá trị chẩn đoán đối với đau đầu migrain bởi vì những thuốc này có thể làm giảm đau đầu do xuất huyết dưới nhện hoặc các bất thường cấu trúc khác.
Nếu cơn đau nhẹ trở nên trầm trọng hơn hoặc nếu cơn đau nặng ngay từ khi khởi phát, có thể dùng triptans hoặc dihydroergotamine. Khi buồn nôn là triệu chứng nổi bật, kết hợp triptan với thuốc chống nôn khi khởi phát các cơn sẽ có hiệu quả.
Triptans là các chất chủ vận thụ thể serotonin 1B, 1D. Bản thân chúng không phải là thuốc giảm đau nhưng giúp ngăn chặn việc giải phóng các neuropeptide gây kích hoạt đau nửa đầu. Triptan có hiệu quả nhất khi dùng lúc khởi phát các cơn migrain. Các thuốc này có sẵn dưới dạng uống, nhỏ mũi và tiêm dưới da; dạng tiêm dưới da hiệu quả hơn nhưng có nhiều tác dụng bất lợi hơn. Việc lạm dụng thuốc triptans cũng có thể dẫn đến đau đầu do lạm dụng thuốc. Triptans và dihydroergotamine có thể làm co thắt động mạch vành do vậy chống chỉ định ở bệnh nhân bị bệnh động mạch vành hoặc tăng huyết áp không kiểm soát; những thuốc này phải được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân cao tuổi và ở bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ mạch máu. Ubrogepant và rimegepant, là các gepant, là những lựa chọn thay thế.
Lasmiditan (thuốc chủ vận thụ thể serotonin [5-HT] 1F mới chọn lọc) hoặc thuốc nhóm gepant, chẳng hạn như ubrogepant hoặc rimegepant, có thể được sử dụng khi triptans hoặc dihydroergotamine bị chống chỉ định do rối loạn tim mạch. Lasmiditan, có ái lực với thụ thể serotonin 1F lớn hơn nhiều so với thụ thể 1B, không có chống chỉ định tim mạch. (Triptans gây co mạch bằng cách kích hoạt thụ thể 5-HT1B.) Tính đến thời điểm này, gepant không có biện pháp phòng ngừa hoặc chống chỉ định về tim mạch và không có tác dụng nghiêm trọng về tim mạch hoặc về tiêu hóa.
Thuốc chống nôn đơn thuần có thể được sử dụng để giảm các cơn đau nhẹ hoặc trung bình. thuốc đặt hậu môn prochlorperazine (25 mg) hoặc viên nén (10 mg) là một lựa chọn cho những bệnh nhân không thể dung nạp triptans và các thuốc co mạch khác.
Bằng chứng ủng hộ việc sử dụng các thiết bị điều hòa thần kinh để điều trị các cơn đau cấp tính và phòng ngừa đau nửa đầu.
Các cơn đau khó chữa
Truyền dịch (ví dụ, 1 đến 2 lít dung dịch muối sinh lý 0,9%) có thể giúp làm giảm đau đầu và tăng cảm giác thoải mái, đặc biệt ở những bệnh nhân bị mất nước do nôn.
Dihydroergotamine đường tĩnh mạch cùng với thuốc chống nôn đối kháng dopamine (ví dụ: metoclopramide 10 mg tiêm tĩnh mạch, prochlorperazine 5 đến 10 mg tiêm tĩnh mạch) giúp loại bỏ các cơn đau rất nghiêm trọng, kéo dài. Dihydroergotamine cũng có ở dạng tiêm dưới da và dạng xịt mũi.
Opioid nên được sử dụng như là công cụ cuối cùng (thuốc cứu hộ) cho đau đầu mức độ nặng khi các biện pháp khác không có hiệu quả.
Đau đầu migrain mạn tính
Các loại thuốc tương tự được sử dụng để ngăn ngừa đau nửa đầu từng cơn, bao gồm các kháng thể đơn dòng chặn CGRP, được sử dụng để điều trị đau nửa đầu mạn tính. Ngoài ra, bằng chứng ủng hộ mạnh mẽ đối với thuốc onabotulinumtoxinA và topiramate.
Bằng chứng ủng hộ việc sử dụng kích thích thần kinh để điều trị đau cấp tính và ngăn ngừa chứng đau nửa đầu mạn tính. Các phương án không xâm lấn bao gồm kích thích trên hốc mắt, kích thích dây thần kinh phế vị, kích thích từ trường xuyên sọ một xung và kích thích điện từ xa.
Điều trị thần kinh
Phương pháp điều trị điều hòa thần kinh, ảnh hưởng đến hoạt động của não thông qua dòng điện hoặc từ trường, có thể không xâm lấn, sử dụng các thiết bị bán sẵn trên thị trường. Các thiết bị này cũng có thể được sử dụng để điều trị các cơn đau và ngăn chặn các cơn đau đó.
Kích thích từ xuyên sọ không xâm lấn, sử dụng một thiết bị cầm tay áp vào phía sau đầu có thể làm giảm chứng đau nửa đầu cấp tính (3). Một thiết bị sử dụng một băng đeo tay để cung cấp một kích thích điện da không đau (gọi là điều trị điện thần kinh từ xa) có thể làm giảm đau nửa đầu cấp tính. Một thiết bị cầm tay cung cấp không xâm lấn kích thích dây thần kinh phế vị cũng có hiệu quả.
Kích thích dây thần kinh sinh ba, bằng một thiết bị áp vào trán, có thể được sử dụng trên bệnh nhân ≥ 18 tuổi để điều trị các cơn đau nửa đầu cấp tính (có hoặc không có tiền triệu) hoặc để làm giảm tần suất các cơn đau.
Các thiết bị điều biến thần kinh không xâm lấn không có tác dụng bất lợi đáng kể. Các phương pháp điều trị xâm lấn có xu hướng chỉ có tại các trung tâm chuyên khoa và có nhiều rủi ro hơn các phương pháp điều trị không xâm lấn.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Marmura MJ, Silberstein SD, Schwedt TJ: The acute treatment of migraine in adults: The American Headache Society evidence assessment of migraine pharmacotherapies. Headache 55 (1):3–20, 2015.
2. Miller S, Sinclair AJ, Davies B, Matharu M: Neurostimulation in the treatment of primary headaches. Pract Neurol 16 (5):362–375, 2016. doi: 10.1136/practneurol-2015-001298
3. Lipton RB, Dodick DW, Silberstein SD, et al: Single-pulse transcranial magnetic stimulation for acute treatment of migraine with aura: A randomised, double-blind, parallel-group, sham-controlled trial. Lancet Neurol 9:373–380, 2010. doi: 10.1016/S1474-4422(10)70054-5
Tiên lượng của đau nửa đầu
Đối với một số bệnh nhân, đau nửa đầu migrain là một sự khó chịu, nhưng có thể chịu được. Đối với những người khác, đó là một bệnh lý nặng nề dẫn đến những giai đoạn tàn tật, mất khả năng lao động, và ảnh hưởng chất lượng cuộc sống trầm trọng.
Phòng ngừa đau nửa đầu
Liệu pháp phòng bệnh hàng ngày được khuyến cáo khi chứng đau đầu migrain thường xuyên gây ảnh hưởng đến hoạt động mặc dù được điều trị cấp tính. Một số chuyên gia cân nhắc dùng onabotulinumtoxin A làm thuốc được lựa chọn.
Đối với bệnh nhân sử dụng thuốc giảm đau thường xuyên (ví dụ: > 2 ngày/tuần), đặc biệt là những người bị đau đầu do lạm dụng thuốc, cần phối hợp thuốc phòng ngừa với chương trình ngừng thuốc giảm đau bị lạm dụng. Việc lựa chọn thuốc có thể được dẫn hướng bằng các rối loạn cùng tồn tại, như sau:
Một liều amitriptyline khi đi ngủ cho những bệnh nhân mất ngủ
Một thuốc chẹn beta cho bệnh nhân bị lo âu hoặc bệnh động mạch vành
Topiramate, có thể gây sụt cân, cho bệnh nhân bị béo phì hoặc bệnh nhân muốn tránh tăng cân
Một loại kháng thể đơn dòng (ví dụ: erenumab, fremanezumab, galcanezumab) nếu các loại thuốc khác không hiệu quả
Gepants có thể được sử dụng cho các cơn đau cấp tính (ubrogepant, rimegepant) và phòng ngừa (atogepant, rimegepant) đau nửa đầu
Các kháng thể đơn dòng và gepant được sử dụng để phòng ngừa đau nửa đầu ngăn chặn quá trình kích hoạt của peptide liên quan đến gen calcitonin (CGRP), có thể gây ra đau nửa đầu (1).
Các phương pháp điều trị sau đây có thể có tác dụng: Kích thích dây thần kinh trên da, sử dụng một thiết bị áp vào trán, có thể làm giảm tần suất của chứng đau nửa đầu (2). Kích thích từ xuyên sọ, được sử dụng bởi một thiết bị áp dụng vào mặt sau của hộp sọ, được chỉ định cho điều trị cấp tính và dự phòng đau nửa đầu ở thanh thiếu niên (≥ 12) và người lớn.
Tài liệu tham khảo về phòng ngừa
1. Jain S, Silberstein SD: Invited commentary on preventive anti-migraine therapy (PAMT). Curr Treat Options Neurol 21 (4):14, 2019. doi:10.1007/s11940-019-0555-4.
2. Schoenen J, Vandersmissen B, Jeangette S, et al: Migraine prevention with a supraorbital transcutaneous stimulator: A randomized controlled trial. Neurol 80 (8):697–704, 2013. doi: https://doi.org/10.1212/WNL.0b013e3182825055
Những điểm chính
Đau nửa đầu là đau đầu nguyên phát, phổ biến.
Triệu chứng có thể bao gồm đau nhói một hoặc hai bên, buồn nôn, nhạy cảm với kích thích giác quan (ví dụ: ánh sáng, âm thanh, mùi), triệu chứng tiền triệu không đặc hiệu, và các triệu chứng thần kinh thoáng qua xuất hiện trước đau đầu (aura).
Chẩn đoán chứng đau nửa đầu dựa trên các phát hiện lâm sàng; nếu bệnh nhân có phát hiện cờ đỏ, thường cần hình ảnh và các xét nghiệm khác.
Nhắc nhở bệnh nhân tham gia vào quá trình chăm sóc bản thân, bao gồm tránh các yếu tố kích hoạt cơn và sử dụng phản hồi sinh học, kiểm soát căng thẳng, và liệu pháp tâm lý khi thích hợp.
Điều trị hầu hết các chứng đau đầu với thuốc giảm đau, dihydroergotamine tiêm tĩnh mạch, hoặc triptans.
Nếu các cơn đau đầu xảy ra thường xuyên và ảnh hưởng tới các hoạt động, sử dụng liệu pháp dự phòng (ví dụ: kháng thể đơn dòng ngăn chặn peptide liên quan đến gen calcitonin [CGRP], amitriptyline, beta-blocker, gepant, topiramate, divalproex), onabotulinumtoxinA hoặc đôi khi là điều trị điều hòa thần kinh.