Bệnh gan liên quan đến rối loạn chuyển hóa (MASLD)

TheoDanielle Tholey, MD, Sidney Kimmel Medical College at Thomas Jefferson University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 9 2023

Bệnh gan nhiễm mỡ là tình trạng tích tụ quá nhiều lipid trong các tế bào gan. Bệnh gan liên quan đến rối loạn chức năng chuyển hóa (MASLD) bao gồm thâm nhiễm mỡ đơn thuần (một tình trạng lành tính gọi là bệnh gan nhiễm mỡ), trong khi viêm gan nhiễm mỡ liên quan đến rối loạn chuyển hóa (MASH) được định nghĩa là sự hiện diện của chất béo dẫn đến nhiễm độc mỡ và tổn thương viêm ở các tế bào gan. Về mặt mô học, MASH khó phân biệt được với viêm gan do rượu. Do đó, để chẩn đoán MASH, cần phải loại trừ việc sử dụng rượu. Việc phân biệt nhiễm mỡ đơn thuần với MASH có thể khó khăn nếu không sinh thiết gan và men gan tăng cao không phải là yếu tố dự báo nhạy cảm trong việc xác định MASH. Sự hiện diện của hội chứng chuyển hóa (béo phì, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và không dung nạp glucose) làm tăng khả năng bệnh nhân mắc MASH hơn là nhiễm mỡ đơn thuần. Sinh bệnh học chưa được hiểu rõ nhưng dường như liên quan đến sự đề kháng insulin (ví dụ như trong bệnh béo phì hoặc hội chứng chuyển hóa). Hầu hết bệnh nhân đều không có triệu chứng. Mặc dù các xét nghiệm chẩn đoán không xâm lấn thường là đủ, nhưng sinh thiết gan vẫn là tiêu chuẩn vàng. Điều trị bao gồm loại bỏ các nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ; các liệu pháp mới đang nổi lên nhanh chóng nhưng vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng.

(Xem thêm American Association for the Study of Liver Diseases [AASLD] 2018 practice guidance on the diagnosis and management of MASLD.)

MASLD bao gồm thâm nhiễm mỡ đơn thuần (một tình trạng lành tính gọi là bệnh gan nhiễm mỡ) và viêm gan nhiễm mỡ liên quan đến rối loạn chuyển hóa (MASH), một biến thể ít phổ biến hơn nhưng quan trọng hơn. MASH (đôi khi được gọi là hoại tử mỡ) được chẩn đoán thường xuyên nhất ở bệnh nhân từ 40 đến 60 tuổi nhưng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Nhiều bệnh nhân có béo phì, tiểu đường loại 2 (hoặc rối loạn dung nạp glucose), rối loạn lipid máu, và/hoặc hội chứng chuyển hóa.

Sinh lý bệnh của MASLD

Bệnh gan nhiễm mỡ phát sinh vì nhiều lý do, liên quan đến nhiều cơ chế sinh hóa khác nhau và gây ra các loại tổn thương gan khác nhau. Sinh lý bệnh liên quan đến sự tích tụ chất béo (nhiễm mỡ), viêm và xơ hóa các mức độ. Nhiễm mỡ là hậu quả của tích tụ triglyceride ở gan. Các cơ chế có thể gây nhiễm mỡ bao gồm giảm tổng hợp lipoprotein tỷ trong rất thấp (VLDL) và tăng tổng hợp triglyceride ở gan (có thể do giảm quá trình oxy hóa các axit béo hoặc tăng giải phóng axit béo tự do từ gan). Viêm có thể là hậu quả của tổn thương do các chất peroxide hóa lipid màng tế bào. Những thay đổi này có thể kích thích các tế bào hình sao ở gan, dẫn đến xơ hóa. Nếu tiến triển, MASH có thể gây ra xơ gantăng áp lực tĩnh mạch cửa.

Các triệu chứng và dấu hiệu của MASLD

Hầu hết bệnh nhân đều không có triệu chứng. Tuy nhiên, một số có mệt mỏi, khó chịu, hoặc tức bụng hạ sườn phải. Gan to có ở khoảng 75% bệnh nhân. Lách to có thể có nếu xơ hóa gan tiến triển và thường là dấu hiệu đầu tiên chỉ điểm có tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Bệnh nhân bị xơ gan do MASH có thể không có triệu chứng và có thể không có đầy đủ các dấu hiệu thường gặp của bệnh gan mạn tính.

Chẩn đoán MASLD

  • Tiền sử (các yếu tố nguy cơ, không uống quá nhiều rượu)

  • Xét nghiệm huyết thanh học loại trừ viêm gan B và C

  • Bằng chứng siêu âm của gan nhiễm mỡ

  • Sinh thiết gan

Cần phải nghi ngờ chẩn đoán MASH trên bệnh nhân bị hội chứng chuyển hóa (điển hình là béo phì, tiểu đường loại 2 hoặc nồng độ glucose trong huyết tương lúc đói cao, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu) và trên bệnh nhân có các bất thường xét nghiệm không rõ nguyên nhân gợi ý bệnh gan. Có thể khó phân biệt tình trạng nhiễm mỡ đơn thuần với MASH và men gan tăng cao không phải là yếu tố dự báo nhạy cảm trong việc xác định MASH. Có hội chứng chuyển hóa cũng như tăng ferritin làm tăng khả năng bệnh nhân bị MASH hơn là nhiễm mỡ đơn thuần. Hơn nữa, các hệ thống tính điểm lâm sàng như là thang điểm FIB4, máy tính điểm xơ hóa MASLD hoặc MASH FibroSure® trong phòng thí nghiệm có thể xác định được bệnh nhân có nguy cơ bị xơ hóa và do đó xác định được những người có nhiều khả năng bị MASH và có nguy cơ tiến triển thành xơ gan. Khi tăng men gan, các bất thường xét nghiệm phổ biến nhất là tăng aminotransferase. Không giống như bệnh gan liên quan đến rượu, tỷ lệ aspartate aminotransferase (AST)/alanine aminotransferase (ALT) trong MASH thường là < 1. Phosphatase kiềm và gamma-glutamyl transpeptidase (GGT) thỉnh thoảng tăng. Tăng bilirubin máu, PT kéo dài và giảm albumin máu ít phổ biến.

Để chẩn đoán, cần có bằng chứng tin cậy (chẳng hạn như tiền sử được bạn bè và người thân xác nhận) rằng không uống quá nhiều rượu (ví dụ < 20g/ngày) và các xét nghiệm huyết thanh học cho thấy không có viêm gan B và C (tức là kháng nguyên bề mặt viêm gan B và kháng thể virut viêm gan C là âm tính). Sinh thiết gan cho thấy các tổn thương tương tự gặp trong viêm gan do rượu, thường bao gồm các giọt chất béo lớn (thâm nhiễm tế bào mỡ khổng lồ) như xơ hóa ngoại bào hoặc dây gà. Chỉ định sinh thiết bao gồm các dấu hiệu không rõ nguyên nhân của tăng áp lực tĩnh mạch cửa (ví dụ, lách to, giảm bạch cầu) và tăng hoạt độ aminotransferase không giải thích được tồn tại > 6 tháng ở bệnh nhân tiểu đường, béo phì, hoặc rối loạn lipid máu.

Chẩn đoán hình ảnh gan, bao gồm siêu âm, CT, và đặc biệt là MRI, có thể xác định gan nhiễm mỡ. Các biện pháp không xâm lấn của xơ hóa như chụp đàn hồi thoáng qua (một xét nghiệm sử dụng cả sóng siêu âm và sóng thấp tần) siêu âm đàn hồi, hoặc MR đàn hồi có thể đánh giá mức độ nặng của nhiễm mỡ cũng như ước lượng xơ hóa, do đó làm giảm nhu cầu sinh thiết gan trong nhiều trường hợp (1, 2). Siêu âm thoáng qua và siêu âm đàn hồi có thể bị giới hạn bởi thói quen của cơ thể (quá lớn/chất béo để sóng siêu âm xâm nhập tốt), trong khi siêu âm MR thì không. Tuy nhiên, các xét nghiệm này không thể xác định được tình trạng viêm điển hình của MASH và không thể phân biệt được MASH với các nguyên nhân khác gây gan nhiễm mỡ.

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Cassinotto C, Boursier J, de Ledinghen V, et al: Liver stiffness in nonalcoholic fatty liver disease: A comparison of supersonic shear imaging, FibroScan, and ARFI with liver biopsy. Hepatology 63(6):1817-1827, 2016 doi: 10.1002/hep.28394

  2. 2. Lee MS, Bae JM, Joo SK, et al: Prospective comparison among transient elastography, supersonic shear imaging and ARFI for predicting fibrosis in nonalcoholic fatty liver disease. PLoS One 12(11)e:0188321, 2017. doi: 10.1371/journal.pone.0188321. eCollection 2017. Erratum in: PLoS One 3(6):e0200055, 2018. doi: 10.1371/journal.pone.0200055. eCollection 2018.

Điều trị MASLD

  • Loại bỏ các nguyên nhân và kiểm soát các yếu tố nguy cơ

Mục tiêu duy nhất được chấp nhận rộng rãi là loại bỏ nguyên nhân tiềm tàng và các yếu tố nguy cơ. Mục tiêu đó có thể bao gồm việc ngừng thuốc hoặc chất độc, giảm cân và điều trị rối loạn lipid máu hoặc là điều trị tăng đường huyết. Bằng chứng sơ bộ cho thấy nhóm thuốc thiazolidinedione và vitamin E có thể giúp điều chỉnh các bất thường về sinh hóa và mô học trong MASH nhưng không cải thiện tình trạng xơ hóa. Hơn nữa, vitamin E được chống chỉ định ở những bệnh nhân bị tiểu đường, điều này làm hạn chế tính hữu dụng của vitamin này. Nhiều phương pháp điều trị khác (ví dụ, axit ursodeoxycholic, metronidazole, metformin, betain, glucagon, truyền glutamine) chưa được chứng minh là có hiệu quả thực sự.

Hiện tại có nhiều liệu pháp mới xuất hiện để điều trị MASH nhắm mục tiêu vào một số con đường phân tử khác nhau bao gồm thụ thể alpha được kích hoạt bằng chất tăng sinh peroxisome (PPAR-alpha), thuốc điều biến peptide-1 giống glucagon (GLP-1) và phối tử thụ thể farnesoid X (FXR). Những liệu pháp mới này cho thấy nhiều hứa hẹn trong việc giải quyết MASH cũng như đảo ngược tình trạng xơ hóa hiện có. Nghiên cứu sâu hơn với một số thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 đang được tiến hành.

Tiên lượng về MASLD

Tiên lượng dựa vào mức độ xơ hóa và là biện pháp duy nhất liên quan đến tỷ lệ tử vong liên quan đến gan và nhu cầu ghép gan (1). Tiên lượng là khó dự đoán, mặc dù bệnh nhân bị MASLD có MASH về mô bệnh học và bằng chứng xơ hóa có nhiều khả năng phát triển thành xơ gan (2). Ước tính rằng 10% số bệnh nhân bị MASLD tiến triển thành xơ gan trong khoảng thời gian 20 năm (3). Rượu cũng như một số loại thuốc (ví dụ: thuốc gây độc tế bào) và rối loạn chuyển hóa có liên quan đến tăng tốc độ viêm gan nhiễm mỡ liên quan đến rối loạn chức năng chuyển hóa (MASH). Do đó, ngay cả việc sử dụng rượu vừa phải cũng nên tránh nguy cơ tiến triển xơ hóa nhanh. Tiên lượng thường là tốt nếu không xuất hiện các biến chứng (như xuất huyết giãn tĩnh mạch).

Tài liệu tham khảo về tiên lượng

  1. 1. Angulo P, Kleiner DE, Dam-Larsen S, et al: Liver fibrosis, but no other histologic features, is associated with long-term outcomes of patients with nonalcoholic fatty liver disease. Gastroenterology 149(2):389-398, 2015 e10. doi: 10.1053/j.gastro.2015.04.043

  2. 2. American Association for the Study of Liver Diseases: 2018 Practice Guidelines.

  3. 3. Nasr P, Ignatova S, Kechagias E, et al: Natural history of nonalcoholic fatty liver disease: A prospective follow-up study with serial biopsies. Hepatol Commun 2(2);199-210, 2017. doi: 10.1002/hep4.1134. eCollection 2018 Feb.

Những điểm chính

  • MASLD bao gồm một tình trạng lành tính gọi là bệnh gan nhiễm mỡ cũng như viêm gan nhiễm mỡ liên quan đến rối loạn chức năng chuyển hóa (MASH).

  • MASH gây tổn thương mô học tương tự như viêm gan do rượu nhưng xảy ra ở những bệnh nhân không nghiện rượu và thường béo phì hoặc bị bệnh tiểu đường loại 2 hoặc rối loạn lipid máu.

  • Các triệu chứng thường không có, nhưng một số bệnh nhân có tức hạ sườn phải, mệt mỏi, và/hoặc khó chịu.

  • Các dấu hiệu tăng áp lực tĩnh mạch cửa và xơ gan có thể xảy ra và có thể là biểu hiện đầu tiên.

  • Loại trừ chứng nghiện rượu (dựa trên tiền sử đã được chứng thực) và viêm gan B và C (bằng xét nghiệm huyết thanh học) và thực hiện việc chụp hình ảnh không xâm lấn để đánh giá thâm nhiễm mỡ và mức độ xơ hóa.

  • Loại bỏ các nguyên nhân và kiểm soát các yếu tố nguy cơ khi có thể.