Các khối u ở ngực là những khối u lành tính hoặc ác tính có thể cản trở chức năng hô hấp.
Các khối u ở thành ngực nguyên phát chiếm 5% khối u của ngực và 1 đến 2% các khối u nguyên phát. Gần một nửa là lành tính.
Các khối u lành tính phổ biến nhất ở ngực là
U xương sụn
U sụn
Loạn sản xơ xương
Tồn tại nhiều khối u ác tính ở ngực. Hơn phân nửa là di căn từ các cơ quan xa hoặc trực tiếp xâm lấn từ các cấu trúc lân cận (vú, phổi, màng phổi, trung gian).
Các khối u ác tính nguyên phát phổ biến nhất phát sinh từ thành ngực là
Sarcoma: Khoảng 45% bắt nguồn từ mô mềm, và 55% bắt nguồn từ mô sụn hoặc xương
Ung thư sụn là sarcoma ở ngực chính phổ biến nhất và phát sinh từ dải xương sườn trước và ít phổ biến hơn ở xương ức, xương vai hoặc xương đòn. Các khối u xương bao gồm sác côm xương và khối u ác tính tế bào nhỏ (ví dụ, khối u Ewing, khối u Askin).
Các khối u ác tính chính ở mô mềm phổ biến nhất là các khối u xơ (U xơ, U xơ thần kinh ác tính) và U mô bào xơ ác tính. Các khối u nguyên phát khác bao gồm u nguyên bào sụn, u nguyên bào xương, u hắc tố, u lympho, sarcom cơ vân, sarcom bạch huyết, đa u tủy và u tương bào.
Các triệu chứng và dấu hiệu của khối u thành ngực
Ung thư mô mềm tại ngực biểu hiện như một khối u tại chỗ mà không có các triệu chứng khác. Nhiều khối u ở thành ngực được phát hiện tình cờ khi nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh được thực hiện vì một lý do khác trên lâm sàng. Một số bệnh nhân kèm theo sốt. Bệnh nhân thường không có cơn đau cho đến khi khối u tiên triển. Ngược lại, khối u sụn và khối u xương thường gây đau đớn.
Chẩn đoán khối u thành ngực
Chẩn đoán hình ảnh
Sinh thiết
Bệnh nhân có khối u ở ngực đòi hỏi phải chụp X-quang ngực, CT, MRI và đôi khi chụp CT bằng bức xạ positron (PET) để xác định vị trí và mức độ ban đầu của khối u và liệu đó có phải là khối u ở ngực chính hay di căn hay không.
Sinh thiết và đánh giá mô học xác định chẩn đoán.
Điều trị khối u thành ngực
Phẫu thuật
Đôi khi hóa trị kết hợp, xạ trị và phẫu thuật
Hầu hết các khối u ngực được điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ và tái tạo. Tái thiết thường sử dụng một sự kết hợp của vạt da và các chất liệu lắp bộ phận giả. Sự hiện diện của một tràn dịch màng phổi ác tính là một chống chỉ định cho phẫu thuật cắt bỏ.
Trong trường hợp u xơ phức tạp hoặc u tương bào bị cô lập, hóa trị liệu và xạ trị nên là liệu pháp đầu tiên.
Các khối u ác tính ở tế bào nhỏ như sarcoma Ewing và khối u Askin nên được điều trị bằng phương pháp đa tiếp cận, kết hợp hóa học trị liệu, xạ trị và phẫu thuật.
Trong trường hợp di căn tới thành ngực từ các khối u xa, chỉ nên sử dụng phương pháp cắt bỏ ngực giảm nhẹ khi các phương pháp không phẫu thuật được chọn không làm giảm các triệu chứng.
Tiên lượng cho khối u thành ngực
Tiên lượng thay đổi theo loại ung thư, phân biệt tế bào và giai đoạn; kết luận chắc chắn bị hạn chế bởi tỷ lệ mắc thấp của bất kỳ khối u nào. Sarcoma được nghiên cứu nhiều nhất, và các sarcoma sụn khởi phát từ thành ngực có tỷ lệ sống sót 5 năm là 17%. Sự sống còn tốt hơn với bệnh giai đoạn đầu.
Những điểm chính
Gần một nửa khối u ở thành ngực là lành tính.
Dưới một nửa khối u ác tính thành ngực là nguyên nhân chính.
Xem xét chẩn đoán nếu bệnh nhân có khối u ngực hoặc đau ngực không giải thích được, có hoặc không kèm theo sốt.
Chẩn đoán u khối ngực bằng chẩn đoán hình ảnh, tiếp theo là sinh thiết.
Điều trị phổ biến nhất với phẫu thuật cắt bỏ và tái tạo (trừ khi có tràn dịch màng phổi ác tính), và đôi khi hóa trị liệu và/hoặc xạ trị.