Tổng quan các rối loạn liên quan đến amiăng

TheoCarrie A. Redlich, MD, MPH, Yale Occupational and Environmental Medicine Program Yale School of Medicine;
Efia S. James, MD, MPH, Bergen New Bridge Medical Center;Brian Linde, MD, MPH, Yale Occ and Env Medicine Program
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 10 2023

    Amiăng là tên gọi chung của một nhóm silicat xuất hiện tự nhiên có đặc tính cấu trúc và chịu nhiệt rất hữu ích trong xây dựng, cách nhiệt và các vật liệu khác trên tàu thủy, trong phanh ô tô và trong một số vật liệu dệt. Có hai loại amiăng chính: serpentine (bao gồm chrysotile) và amphibole (bao gồm amosite, crocidolite, anthophyllite, tremolite và actinolite). Sợi chrysotile là loại amiăng phổ biến nhất được sử dụng trên toàn thế giới.

    Ở hầu hết các nước phát triển, việc sử dụng amiăng đã giảm trong nhiều thập kỷ qua, nhưng amiăng vẫn có thể được tìm thấy trong các vật liệu xây dựng cũ và một số sản phẩm. Việc sử dụng amiang rộng rãi hơn vẫn tiếp tục diễn ra chủ yếu ở một số nước đang phát triển. Do khoảng thời gian chờ đợi lâu giữa phơi nhiễm và bệnh tật, bệnh liên quan đến amiăng tiếp tục xảy ra.

    Phơi nhiễm trước đó do nghề nghiệp vẫn là nguyên nhân chính gây ra bệnh liên quan đến amiăng. Amiăng cũng hiện diện ở mức độ thấp trong không khí, nước và đất; mức độ phơi nhiễm môi trường thấp này thường không phải là yếu tố góp phần đáng kể gây ra bệnh tật ở người.

    Các rối loạn liên quan đến amiăng là do hít phải sợi amiăng, chẳng hạn như khi vật liệu chứa amiăng dễ vỡ bị xáo trộn. Amiăng có thể gây ra bệnh lành tính và ác tính.

    Bệnh không ác tính bao gồm

    • Bệnh bụi phổi amiăng

    • Hình thành mảng bám ở màng phổi liên quan đến amiăng và dày màng phổi

    • Tràn dịch màng phổi lành tính (BAPE)

    Bệnh bụi phổi amiăng là một dạng xơ phổi kẽ do phơi nhiễm với amiăng.

    Các mảng màng phổi liên quan đến amiăng là biểu hiện phổ biến nhất của phơi nhiễm amiăng. Thời gian ủ bệnh từ khi phơi nhiễm đến khi khởi phát là 20 năm đến 30 năm. Thông thường, các mảng màng phổi không có triệu chứng, mặc dù do phơi nhiễm với amiăng nên các mảng này làm tăng nguy cơ mắc các bệnh phổi khác liên quan đến amiăng.

    Dày màng phổi liên quan đến amiăng được đặc trưng bởi sự dày lên lan rộng của màng phổi tạng với các vùng dính vào màng phổi thành và tắc nghẽn khoang màng phổi. Dày màng phổi lan tỏa có thể xảy ra sau tràn dịch màng phổi không ác tính và có thể liên quan đến tình trạng thiếu hụt hạn chế, khó thở và đau ngực.

    Tràn dịch màng phổi amiăng lành tính (BAPE) là tình trạng tràn dịch màng phổi nhỏ, thường một bên và có xuất huyết. Những bệnh này thường xảy ra sớm hơn các bệnh phổi liên quan đến amiăng khác, thường là trong vòng 10 năm kể từ khi phơi nhiễm. BAPE có thể không có triệu chứng hoặc biểu hiện sốt và đau ngực kiểu màng phổi.

    Bệnh ác tính bao gồm

    • Ung thư phổi

    • U trung biểu mô

    Ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất liên quan đến phơi nhiễm amiăng. Thời gian tiềm ẩn từ khi tiếp xúc với bệnh khởi phát thường là từ 20 năm đến 30 năm. Nguy cơ ung thư phổi do phơi nhiễm amiăng tăng lên khi mức phơi nhiễm tích lũy lớn hơn. Mặc dù bệnh bụi phổi amiăng là dấu hiệu của phơi nhiễm ở mức độ cao nhưng ung thư phổi có thể xảy ra mà không có bệnh bụi phổi amiăng. Hút thuốc và phơi nhiễm amiăng có tác động nhân lên rõ rệt đối với nguy cơ ung thư phổi.

    Ung thư trung biểu mô, một khối u ác tính của màng phổi và/hoặc phúc mạc, được đặc trưng bởi thời gian chờ đợi lâu kể từ khi phơi nhiễm đến khi bệnh khởi phát, với thời gian trung bình là khoảng 40 năm. Mặc dù hầu hết ung thư trung biểu mô đều có nguồn gốc nghề nghiệp, nhưng bệnh ung thư này cũng có thể phát triển sau khi phơi nhiễm với môi trường hoặc mang về nhà (tức là khi một công nhân mang amiăng về nhà qua đồ đạc bị ô nhiễm).

    (Xem thêm Tổng quan về bệnh phổi do môi trường và nghề nghiệp.)