Nguồn chủ đề
Các vấn đề liên quan đến thuốc thường gặp ở người cao tuổi, bao gồm thuốc không hiệu quả, tác dụng bất lợi của thuốc, quá liều, dùng thuốc không đủ liều, điều trị không phù hợp, theo dõi không đầy đủ, không tuân thủ điều trị và tương tác giữa các thuốc hoặc giữa thuốc và bệnh. (Xem thêm Tổng quan về liệu pháp dược lý ở người cao tuổi.)
Thuốc có thể không hiệu quả ở người cao tuổi vì bác sĩ lâm sàng kê liều thấp hơn hoặc không điều chỉnh liều theo thời gian (ví dụ: vì lo ngại về tác dụng bất lợi) hoặc vì tuân thủ kém (ví dụ: do hạn chế về tài chính hoặc hạn chế về nhận thức).
Tác dụng phụ của thuốc là những tác dụng không mong muốn, gây không thoải mái, hoặc nguy hiểm. Các ví dụ phổ biến là dùng thuốc an thần quá liều, lú lẫn, ảo giác, té ngã, tiêu chảy, táo bón và chảy máu. Trong số những người đi lại được ≥ 65 tuổi, tác dụng bất lợi của thuốc xảy ra với tỷ lệ khoảng 50 trường hợp trên 1000 người-năm (1). Tỷ lệ nhập viện do tác dụng bất lợi của thuốc cao hơn từ 4 lần đến 7 lần ở bệnh nhân cao tuổi so với bệnh nhân trẻ tuổi; những lần nhập viện này ở bệnh nhân cao tuổi thường là do thuốc chống đông máu, kháng sinh, thuốc tiểu đường, thuốc giảm đau opioid và thuốc chống loạn thần (2, 3).
Tài liệu tham khảo
1. Gurwitz JH, Field TS, Harrold LR, et al. Incidence and preventability of adverse drug events among older persons in the ambulatory setting. JAMA. 2003;289(9):1107-1116. doi:10.1001/jama.289.9.1107
2. Salvi F, Marchetti A, D'Angelo F, Boemi M, Lattanzio F, Cherubini A. Adverse drug events as a cause of hospitalization in older adults. Drug Saf. 2012;35 Suppl 1:29-45. doi:10.1007/BF03319101
3. Shehab N, Lovegrove MC, Geller AI, Rose KO, Weidle NJ, Budnitz DS. US Emergency Department Visits for Outpatient Adverse Drug Events, 2013-2014. JAMA. 2016;316(20):2115-2125. doi:10.1001/jama.2016.16201
Lý do gây ra các vấn đề liên quan đến thuốc
Tác dụng phụ của thuốc có thể xảy ra ở bất kỳ bệnh nhân nào, nhưng một số đặc điểm nhất định của người cao tuổi khiến họ dễ bị tổn thương hơn. Ví dụ, người cao tuổi thường dùng nhiều loại thuốc và có những thay đổi về dược lực học và dược động học liên quan đến tuổi tác; cả hai đều làm tăng nguy cơ tác dụng bất lợi.
Ở bất kỳ lứa tuổi nào, tác dụng bất lợi của thuốc đều có thể xảy ra khi thuốc được kê đơn và dùng đúng cách; ví dụ: phản ứng dị ứng mới khởi phát là không thể dự đoán hoặc phòng ngừa được. Tuy nhiên, người ta cho rằng tác dụng bất lợi có thể phòng ngừa được trong nhiều trường hợp ở người cao tuổi (1).
Ở người cao tuổi, một số nguyên nhân phổ biến gây ra tác dụng bất lợi của thuốc, thuốc không hiệu quả hoặc cả hai đều có thể phòng ngừa được. Các nguyên nhân có thể phòng ngừa như vậy bao gồm:
Tình trạng bệnh lý không được điều trị
Việc giao tiếp không đầy đủ với bệnh nhân hoặc giữa các chuyên gia chăm sóc sức khỏe (đặc biệt là trong quá trình chuyển đổi chăm sóc sức khỏe) là nguyên nhân chính gây ra tác dụng bất lợi của thuốc ở người cao tuổi. Nhiều vấn đề liên quan đến thuốc có thể được ngăn ngừa nếu chú ý nhiều hơn đến việc đối chiếu thuốc khi bệnh nhân nhập viện hoặc xuất viện hoặc tại các giai đoạn chuyển tiếp chăm sóc khác (chuyển từ viện dưỡng lão sang bệnh viện hoặc từ cơ sở điều dưỡng có chuyên môn về nhà) (2-4). Một nguồn gây ra tác dụng bất lợi của thuốc khác là việc thiếu đánh giá liên tục về hiệu quả của thuốc và nhu cầu tiếp tục sử dụng các loại thuốc cụ thể.
Tương tác thuốc-bệnh
Một loại thuốc dùng để điều trị một bệnh có thể làm trầm trọng thêm một bệnh khác bất kể tuổi tác của bệnh nhân, nhưng những tương tác như vậy cần đặc biệt quan tâm ở người cao tuổi. Việc phân biệt các tác dụng bất lợi khó nhận biết của thuốc với tác dụng của bệnh thường rất khó khăn và có thể dẫn đến một chuỗi kê đơn thuốc. Tiêu chuẩn Beers® của Hiệp hội Lão khoa Hoa Kỳ thường được sử dụng để xác định các tương tác giữa thuốc và bệnh nền ở người cao tuổi và đưa ra các khuyến nghị về việc điều trị nội khoa (5).
Chuỗi kê đơn xảy ra khi tác dụng bất lợi của một loại thuốc bị hiểu nhầm là triệu chứng hoặc dấu hiệu của một bệnh mới và một loại thuốc mới được kê đơn để điều trị bệnh đó. Loại thuốc mới không cần thiết có thể gây ra thêm các tác dụng bất lợi, sau đó có thể bị hiểu sai là một bệnh khác và được điều trị không cần thiết, v.v.
Nhiều loại thuốc có tác dụng bất lợi giống với các triệu chứng của các bệnh thường gặp ở người cao tuổi hoặc những thay đổi do lão hóa. Sau đây là các ví dụ:
Thuốc chống loạn thần có thể gây ra các triệu chứng giống với bệnh Parkinson. Ở những bệnh nhân cao tuổi, các triệu chứng này có thể được chẩn đoán là bệnh Parkinson và được điều trị, từ đó có thể dẫn đến các phản ứng phụ từ các thuốc điều trị parkinson (ví dụ: hạ huyết áp tư thế đứng, mê sảng, buồn nôn).
Thuốc ức chế cholinesterase (ví dụ: donepezil) có thể được kê cho bệnh nhân bị sa sút trí tuệ. Những loại thuốc này có thể gây tiêu chảy, tiểu nhiều lần hoặc tiểu không tự chủ. Bệnh nhân sau đó có thể được kê đơn thuốc kháng cholinergic (ví dụ: oxybutynin) để điều trị các triệu chứng mới. Như vậy, một loại thuốc không cần thiết được thêm vào, làm tăng nguy cơ tác dụng bất lợi của thuốc và tương tác thuốc. Một chiến lược tốt hơn là giảm liều thuốc ức chế cholinesterase hoặc xem xét một phương pháp điều trị khác nhau cho bệnh sa sút trí tuệ (ví dụ: thuốc memantine) với một cơ chế hoạt động khác.
Thuốc chẹn kênh canxi (ví dụ: amlodipine, nifedipine, felodipine) có thể được kê đơn cho bệnh nhân tăng huyết áp. Những loại thuốc này có thể điều trị tăng huyết áp một cách thích hợp, nhưng cũng có thể gây phù ngoại biên. Sau đó, bệnh nhân có thể được chỉ định điều trị bằng thuốc lợi tiểu (ví dụ: furosemide), sau đó có thể gây hạ kali máu, cần bổ sung kali. Một chiến lược tốt hơn là giảm liều hoặc ngừng thuốc chẹn kênh canxi để thay thế cho các thuốc hạ huyết áp khác, chẳng hạn như thuốc ức chế men chuyển angiotensin hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin.
Ở những bệnh nhân cao tuổi, người kê đơn phải luôn cân nhắc đến khả năng triệu chứng hoặc dấu hiệu mới là do điều trị bằng thuốc hiện tại gây ra.
Tương tác thuốc-thuốc
Vì người cao tuổi thường dùng nhiều loại thuốc nên họ đặc biệt dễ bị tương tác giữa các thuốc. Người cao tuổi cũng thường xuyên sử dụng thảo dược và các loại thực phẩm chức năng khác và có thể không chia sẻ những thông tin này với chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Các loại thảo mộc có thể tương tác với các loại thuốc được kê đơn và dẫn đến các tác dụng có hại. Ví dụ, chiết xuất ginkgo biloba dùng cùng với warfarin có thể làm tăng nguy cơ chảy máu, và cỏ St. John được dùng với các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) có thể làm tăng nguy cơ hội chứng serotonin. Do đó, bác sĩ lâm sàng nên hỏi cụ thể bệnh nhân về việc sử dụng thực phẩm bổ sung, bao gồm cả thảo dược và thực phẩm bổ sung vitamin.
Tương tác giữa các thuốc ở người cao tuổi cũng tương tự như trong dân số nói chung. Tuy nhiên, quá trình gây cảm ứng chuyển hóa thuốc qua cytochrome P-450 (CYP450) do một số loại thuốc nhất định (ví dụ: phenytoin, carbamazepine, rifampin) có thể giảm ở người cao tuổi; do đó, sự thay đổi (tăng) trong quá trình chuyển hóa thuốc có thể ít rõ rệt hơn ở người cao tuổi. Nhiều loại thuốc khác ức chế quá trình chuyển hóa CYP450 và do đó làm tăng nguy cơ độc tính của các loại thuốc phụ thuộc vào con đường đào thải đó. Vì người cao tuổi thường sử dụng một số lượng lớn các thuốc khác nhay, do đó họ có nguy cơ cao hơn nhiều, khó dự đoán được tương tác qua CYP450. Việc sử dụng nhiều loại thuốc cũng có thể khiến nhiều tương tác thuốc trở nên khó dự đoán. Ví dụ: ngay cả khi có tương tác đã biết giữa 2 loại thuốc, tương tác đó vẫn có thể khác nếu dùng đồng thời loại thuốc thứ ba hoặc thứ tư. Đồng thời, sử dụng đồng thời ≥ 1 thuốc có tác dụng phụ tương tự nhau có thể làm tăng nguy cơ hoặc mức độ nghiêm trọng của các tác dụng phụ.
Theo dõi không đầy đủ
Theo dõi việc sử dụng thuốc bao gồm:
Ghi lại chỉ định của một loại thuốc mới
Lưu giữ danh sách thuốc hiện tại mà bệnh nhân đã sử dụng trong hồ sơ bệnh án
Theo dõi dùng thuốc để đạt được các mục tiêu chữa bệnh và các phản ứng khác đối với các loại thuốc mới
Theo dõi các xét nghiệm cần thiết trong phòng thí nghiệm hoặc các xét nghiệm khác để đánh giá hiệu quả hoặc tác dụng bất lợi (ví dụ: natri, kali, magiê, vitamin B12, nhịp tim, khoảng QT đã hiệu chỉnh [QTc])
Định kỳ xem xét lại thuốc để đánh giá hiệu quả và việc cần phải tiếp tục
Những biện pháp này đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân lớn tuổi. Việc thiếu theo dõi chặt chẽ, đặc biệt là sau khi kê đơn thuốc mới, làm tăng nguy cơ dùng nhiều thuốc, tác dụng bất lợi và không hiệu quả.
Lựa chọn thuốc không phù hợp
Một loại thuốc được coi là không phù hợp nếu khả năng gây hại của thuốc đó lớn hơn khả năng mang lại lợi ích. Việc sử dụng thuốc không đúng cách có thể bao gồm:
Lựa chọn thuốc không phù hợp, liều lượng, tần suất dùng thuốc hoặc thời gian điều trị
Điều trị trùng lặp
Không xem xét tương tác thuốc và hướng dẫn sử dụng thuốc phù hợp
Thuốc thích hợp được tiếp tục dùng một cách nhầm lẫn sau khi tình trạng cấp tính đã đỡ (điều này có thể xảy ra khi bệnh nhân chuyển từ cơ sở chăm sóc sức khỏe này sang cơ sở chăm sóc sức khỏe khác và chỉ định không được đánh giá lại)
Một số loại thuốc cần được quan tâm đặc biệt ở người cao tuổi. Một số loại thuốc nên tránh hoàn toàn ở người cao tuổi, một số chỉ nên tránh trong những trường hợp nhất định và một số khác có thể sử dụng nhưng phải theo dõi chặt chẽ. Tiêu chuẩn Beers® của Hiệp hội Lão khoa Hoa Kỳ liệt kê các loại thuốc có khả năng không phù hợp cho người cao tuổi theo nhóm thuốc; có sẵn các danh sách tương tự khác (5). Cũng có danh sách một số phương pháp thay thế có dùng thuốc và không dùng thuốc có tài liệu tham khảo hỗ trợ (6). Các bác sĩ lâm sàng phải cân nhắc những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của điều trị ở mỗi bệnh nhân. Các tiêu chuẩn này không áp dụng cho những bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời, khi các quyết định về điều trị bằng thuốc có sự khác biệt rất nhiều.
Mặc dù đã phổ biến và biết đến Tiêu chuẩn Beers® của Hiệp hội Lão khoa Hoa Kỳ và các tiêu chuẩn khác, các loại thuốc không phù hợp vẫn được kê đơn cho người cao tuổi; khoảng 45% số người cao tuổi sống trong cộng đồng dùng ít nhất một loại thuốc không phù hợp (7). Ở những bệnh nhân này, nguy cơ gặp tác dụng phụ tăng lên. Ở bệnh nhân sống trong nhà dưỡng lão, việc sử dụng thuốc không thích hợp cũng làm tăng nguy cơ nhập viện và tử vong. Trong một nghiên cứu về bệnh nhân nằm viện, 27,5% số bệnh nhân dùng một loại thuốc có khả năng không phù hợp dựa trên Tiêu chuẩn Beers của Hiệp hội Lão khoa Hoa Kỳ® (8).
Một số loại thuốc không phù hợp (ví dụ: diphenhydramine và thuốc chống viêm không steroid đường uống [NSAID]) được bán không cần đơn (OTC); do đó, bác sĩ lâm sàng nên hỏi cụ thể bệnh nhân về việc sử dụng thuốc OTC và thảo luận với bệnh nhân về các vấn đề tiềm ẩn mà các thuốc này có thể gây ra.
Người cao tuổi thường được kê đơn thuốc (thường là thuốc giảm đau, thuốc ức chế bơm proton hoặc thuốc ngủ) để điều trị các triệu chứng nhẹ (bao gồm cả tác dụng bất lợi của các loại thuốc khác) có thể được điều trị tốt hơn bằng các biện pháp can thiệp không dùng thuốc (ví dụ: tập thể dục, vật lý trị liệu, mát-xa, thay đổi chế độ ăn uống, liệu pháp nhận thức - hành vi) hoặc bằng cách giảm liều thuốc gây ra tác dụng bất lợi. Việc bắt đầu dùng thêm thuốc thường không phù hợp; lợi ích có thể thấp, chi phí tăng lên và thuốc mới có thể gây thêm độc tính.
Để loại bỏ hiệu quả việc sử dụng thuốc không phù hợp ở người cao tuổi, cần phải làm nhiều việc hơn là chỉ tránh lập một danh sách ngắn các loại thuốc và ghi chú các loại thuốc đáng lo ngại. Toàn bộ phác đồ dùng thuốc của bệnh nhân cũng cần được đánh giá thường xuyên để xác định nhu cầu tiếp tục dùng thuốc và cân nhắc những lợi ích tiềm tàng so với nguy cơ.
Tuân thủ điều trị kém
Hiệu quả của thuốc thường bị ảnh hưởng do bệnh nhân cao tuổi không tuân thủ điều trị. Sự tuân thủ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả rào cản ngôn ngữ, nhưng không phải bởi độ tuổi. Có tới một nửa số người cao tuổi không dùng thuốc theo chỉ dẫn, thường dùng ít hơn liều được kê đơn (không tuân thủ đúng liều). Nguyên nhân cũng tương tự như đối với người trẻ tuổi. Ngoài ra, còn do các yếu tố sau đây:
Những hạn chế về tài chính và hạn chế về thể chất có thể khiến việc mua thuốc trở nên khó khăn
Các vấn đề về nhận thức hoặc hiểu biết về sức khỏe thấp có thể khiến việc dùng thuốc theo chỉ dẫn trở nên khó khăn
Sử dụng nhiều loại thuốc
Sử dụng các loại thuốc phải uống nhiều lần trong ngày hoặc theo cách cụ thể
Thiếu hiểu biết về lợi ích mong muốn của thuốc, các tác dụng bất lợi tiềm ẩn hoặc sử dụng các dạng bào chế không thông thường, chẳng hạn như miếng dán xuyên da hoặc bình xịt
Phác đồ dùng thuốc quá thường xuyên hoặc quá ít lần, dùng nhiều loại thuốc hoặc cả hai có thể quá phức tạp để bệnh nhân tuân theo. Các bác sĩ lâm sàng nên đánh giá trình độ hiểu biết về sức khỏe của bệnh nhân và khả năng tuân thủ phác đồ điều trị (ví dụ: sự khéo léo, cơ lực của bàn tay, nhận thức, thị lực) và cố gắng đáp ứng những hạn chế của họ – ví dụ: bằng cách sắp xếp hoặc đề xuất các hộp đựng dễ lấy, nhãn thuốc và hướng dẫn bằng chữ lớn, hộp đựng được trang bị chuông báo nhắc nhở, hộp đựng được đổ đầy thuốc dựa trên nhu cầu dùng thuốc hàng ngày, gọi điện thoại nhắc nhở hoặc hỗ trợ dùng thuốc. Dược sĩ và y tá có thể giúp đỡ bằng cách hướng dẫn và xem xét cách dùng thuốc theo đơn của bệnh nhân cao tuổi ở mỗi lần gặp. Dược sĩ có thể xác định được vấn đề bằng cách ghi nhận liệu bệnh nhân có nộp lại vỏ thuốc đúng thời hạn hay liệu đơn thuốc có vẻ vô lý hay không chính xác hay không. Nhiều hiệu thuốc và hệ thống y tế có thể theo dõi tình trạng nạp thuốc và liên hệ với bệnh nhân và/hoặc người kê đơn nếu đơn thuốc không được mua thuốc thêm theo đúng định kỳ.
Quá liều thuốc
Có thể kê đơn thuốc quá liều cho người cao tuổi nếu người kê đơn không xem xét đến những thay đổi liên quan đến tuổi tác ảnh hưởng đến dược động học và dược lực học. Ví dụ, nên điều chỉnh liều lượng thuốc thải trừ qua thận (như gabapentin, một số thuốc kháng vi khuẩn, digoxin) ở bệnh nhân suy thận.
Nhìn chung, mặc dù nhu cầu về liều dùng khác nhau đáng kể ở mỗi người, nhưng người cao tuổi nên bắt đầu dùng thuốc ở mức liều thấp nhất. Hầu hết các loại thuốc đều chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng ở người lớn > 75 tuổi (đặc biệt là những người mắc nhiều bệnh, sử dụng nhiều loại thuốc và/hoặc suy nhược) và do đó, tình trạng quá liều thường xảy ra chỉ vì thiếu dữ liệu về cách dùng thuốc cho những bệnh nhân này. Thông thường, liều khởi đầu bằng khoảng một phần ba đến một nửa liều thông thường dành cho người lớn được chỉ định khi thuốc có phạm vi điều trị hẹp, khi thuốc có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh khác và đặc biệt là khi bệnh nhân yếu. Liều thuốc sau đó được tăng dần nếu dung nạp để đạt hiệu quả mong muốn. Khi liều tăng lên, bệnh nhân cần được đánh giá về các tác dụng phụ và nồng độ thuốc cần được theo dõi nếu có thể.
Quá liều cũng có thể xảy ra khi tương tác thuốc làm tăng lượng thuốc có sẵn hoặc khi các bác sĩ lâm sàng khác nhau kê đơn thuốc và không biết rằng một bác sĩ lâm sàng khác đã kê đơn cùng loại thuốc hoặc loại thuốc tương tự (trùng lặp điều trị). Bệnh nhân chỉ sử dụng một hiệu thuốc sẽ tăng khả năng xác định và ngăn ngừa sự trùng lặp trong điều trị.
Giao tiếp kém
Việc truyền đạt thông tin y tế kém tại các điểm chuyển tiếp (từ cơ sở chăm sóc sức khỏe này sang cơ sở chăm sóc sức khỏe khác) gây ra nhiều sai sót về thuốc và tác dụng bất lợi của thuốc trong bệnh viện. Khi bệnh nhân xuất viện, các phác đồ dùng thuốc đã được bắt đầu và chỉ cần dùng trong bệnh viện (ví dụ: thuốc an thần, thuốc nhuận tràng, thuốc ức chế bơm proton) có thể được bác sĩ kê đơn cho bệnh nhân xuất viện tiếp tục dùng một cách không cần thiết. Tương tự như vậy, danh mục thuốc của bệnh viện có thể yêu cầu thay đổi thuốc từ sản phẩm này sang sản phẩm khác trong thời gian lưu trú (ví dụ: statin) có thể dẫn đến lỗi trùng lặp hoặc bỏ sót khi xuất viện. Ngược lại, khi nhập viện tại cơ sở chăm sóc sức khỏe, việc thiếu giao tiếp có thể dẫn đến việc vô tình bỏ sót thuốc điều trị duy trì cần thiết. Đối chiếu thuốc là một quy trình chính thức nhằm xem xét tất cả các loại thuốc được kê đơn tại mỗi lần chuyển đổi chăm sóc và có thể giúp loại bỏ lỗi và thiếu sót.
Kê đơn không đầy đủ
Thuốc phù hợp có thể được kê đơn không đủ liều, tức là không được sử dụng để đạt hiệu quả tối đa. Việc kê đơn không đầy đủ có thể làm gia tăng tỉ lệ mắc bệnh và tử vong và làm giảm chất lượng cuộc sống. Bác sĩ nên sử dụng liều lượng thuốc thích hợp, và khi được chỉ định dùng phác đồ đa liều.
Các loại thuốc thường được kê đơn không đủ liều ở người cao tuổi bao gồm thuốc điều trị trầm cảm, bệnh Alzheimer, suy tim, sau nhồi máu cơ tim (thuốc chẹn beta), rung nhĩ (thuốc chống đông máu) và tăng huyết áp. Ngoài ra, tiêm phòng không phải lúc nào được đưa ra như khuyến cáo.
Thuốc chẹn beta: Ở những bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim và/hoặc suy tim, ngay cả ở những bệnh nhân cao tuổi có nguy cơ biến chứng cao (ví dụ: những người mắc bệnh phổi hoặc tiểu đường), những loại thuốc này có thể làm giảm tỷ lệ tử vong và nhập viện.
Thuốc chống tăng huyết áp: Đã có hướng dẫn điều trị tăng huyết áp ở người cao tuổi và việc điều trị dường như có lợi (giảm nguy cơ đột quỵ và các biến cố tim mạch lớn) ngay cả ở người cao tuổi yếu ớt. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra rằng cao tăng huyết áp thường không được kiểm soát tối ưu ở bệnh nhân cao tuổi.
Thuốc điều trị bệnh Alzheimer: Thuốc ức chế acetylcholinesterase và đối kháng NMDA (N-metyl-d-partate) đã được chứng minh là có lợi cho bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer. Lợi ích ít và thay đổi, nhưng bệnh nhân và thành viên trong gia đình nên có cơ hội đưa ra quyết định sáng suốt về việc sử dụng chúng.
Thuốc chống đông máu: Thuốc chống đông máu (cả warfarin và thuốc chống đông máu uống trực tiếp mới hơn) làm giảm nguy cơ đột quỵ ở bệnh nhân rung nhĩ. Mặc dù thuốc chống đông có thể làm tăng nguy cơ chảy máu, một số người cao tuổi có thể được hưởng lợi ích từ thuốc chống đông máu nhưng không được kê đơn.
Tiêm chủng: Người cao tuổi có nguy cơ mắc bệnh và tử vong cao hơn do bệnh cúm, nhiễm phế cầu khuẩn, vi-rút hợp bào hô hấp, COVID-19, ho gà và herpes zoster. Tỷ lệ tiêm chủng ở người cao tuổi vẫn có thể được cải thiện.
Ở những bệnh nhân cao tuổi bị bệnh mạn tính, có thể không được điều trị các rối loạn cấp tính hoặc không liên quan (ví dụ: tăng cholesterol máu có thể không được điều trị ở bệnh nhân COPD [bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính]). Bác sĩ lâm sàng có thể không dùng các phương pháp điều trị này bởi vì họ lo ngại về việc tăng nguy cơ tác dụng phụ hoặc thời gian cần thiết để được hưởng lợi từ điều trị ở một bệnh nhân bị giảm tuổi thọ. Các bác sĩ lâm sàng có thể nghĩ rằng việc điều trị vấn đề chính là tất cả những gì bệnh nhân có thể hoặc muốn xử lý hoặc rằng bệnh nhân không đủ khả năng chi trả cho các loại thuốc bổ sung. Bệnh nhân và người chăm sóc nên là những người tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định về điều trị bằng thuốc để các bác sĩ lâm sàng có thể hiểu được những ưu tiên và mối quan tâm của bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo
1. Zazzara MB, Palmer K, Vetrano DL, Carfì A, Onder G. Adverse drug reactions in older adults: a narrative review of the literature [published correction appears in Eur Geriatr Med. Tháng 2 năm 2022;13(1):307. doi: 10.1007/s41999-021-00591-4.]. Eur Geriatr Med. 2021;12(3):463-473. doi:10.1007/s41999-021-00481-9
2. Tam VC, Knowles SR, Cornish PL, et al: Frequency, type and clinical importance of medication history errors at admission to hospital: a systematic review. CMAJ 173(5):510-5, 2005. doi: 10.1503/cmaj.045311
3. Wong JD, Bajcar JM, Wong GG, et al: Medication reconciliation at hospital discharge: evaluating discrepancies. Ann Pharmacother 42(10):1373-9, 2008. doi: 10.1345/aph.1L190
4. Forster AJ, Clark HD, Menard A, et al: Adverse events among medical patients after discharge from hospital. CMAJ 170(3):345-9.
5. The 2023 American Geriatrics Society Beers Criteria® Update Expert Panel. American Geriatrics Society 2023 updated AGS Beers Criteria® for potentially inappropriate medication use in older adults. J Am Geriatr Soc. 2023;71(7):2052-2081. doi:10.1111/jgs.18372
6. Hanlon JT, Semla TP, Schmader KE, et al: Alternative medications for medications in the use of high-risk medications in the elderly and potentially harmful drug-disease interactions in the elderly quality measures. J Am Geriatr Soc 63(12): e8-e18, 2015. doi: 10.1111/jgs.13807
7. Innes GK, Ogden CL, Crentsil V, Concato J, Fakhouri TH. Prescription Medication Use Among Older Adults in the US. JAMA Intern Med. 2024;184(9):1121-1123. doi:10.1001/jamainternmed.2024.2781
8. Page RL 2nd, Ruscin JM. The risk of adverse drug events and hospital-related morbidity and mortality among older adults with potentially inappropriate medication use. Am J Geriatr Pharmacother. 2006;4(4):297-305. doi:10.1016/j.amjopharm.2006.12.008
Phòng ngừa
Trước khi bắt đầu dùng một loại thuốc mới
Để giảm nguy cơ tác dụng bất lợi của thuốc ở người cao tuổi, bác sĩ lâm sàng nên thực hiện những điều sau trước khi bắt đầu dùng thuốc mới:
Hãy xem xét rằng các triệu chứng mới hoặc các vấn đề y tế có thể liên quan đến điều trị bằng thuốc hiện có
Cân nhắc điều trị không dùng thuốc
Thảo luận về mục tiêu chăm sóc với bệnh nhân và/hoặc người chăm sóc và thiết lập khung thời gian dự kiến sẽ có lợi từ điều trị bằng thuốc
Đánh giá chỉ định cho mỗi loại thuốc mới (để tránh sử dụng thuốc không cần thiết)
Xem xét các thay đổi liên quan đến tuổi về dược động học hoặc dược lực học và ảnh hưởng của chúng đến liều lượng thuốc
Chọn loại thuốc an toàn nhất có thể cho chỉ định (ví dụ: đối với viêm khớp không viêm, dùng acetaminophen thay vì thuốc chống viêm không steroid đường uống [NSAID])
Kiểm tra sự tương tác giữa thuốc với bệnh và tương tác giữa thuốc và thuốc
Bắt đầu với liều hiệu quả thấp nhất
Sử dụng ít thuốc nhất có thể
Lưu ý những bệnh lý đồng mắc và khả năng gây ra các tác dụng phụ của thuốc
Giải thích việc sử dụng và tác dụng bất lợi của từng loại thuốc
Đưa ra hướng dẫn rõ ràng cho bệnh nhân về cách dùng thuốc (bao gồm tên chung và tên thương hiệu, cách viết tên thuốc, chỉ định cho từng loại thuốc và giải thích về các công thức bào chế có nhiều loại thuốc) và thời gian cần dùng thuốc
Dự đoán sự nhầm lẫn do tên thuốc phát âm giống nhau và chỉ ra bất kỳ tên nào có thể gây nhầm lẫn (ví dụ: Glucophage® và Glucovance®)
Sau khi bắt đầu dùng thuốc
Cần thực hiện những việc sau đây sau khi bắt đầu dùng thuốc:
Giả sử một triệu chứng mới có thể liên quan đến thuốc cho đến khi được chứng minh là không liên quan (để ngăn chặn một chuỗi kê đơn thuốc).
Theo dõi bệnh nhân có dấu hiệu của các tác dụng phụ bất lợi, bao gồm đo nồng độ thuốc và làm các xét nghiệm khác nếu cần.
Ghi lại phản ứng của thuốc và tăng liều khi cần thiết để đạt được hiệu quả mong muốn.
Đánh giá lại thường xuyên nhu cầu tiếp tục điều trị bằng thuốc và ngừng các loại thuốc không còn cần thiết hoặc các loại thuốc có nguy cơ tiềm ẩn cao hơn lợi ích.
Khi di chuyển bệnh nhân
Những điều sau đây cần được tiến hành:
Đối chiếu thuốc là một quá trình giúp đảm bảo chuyển giao thông tin về phác đồ dùng thuốc tại bất kỳ điểm chuyển tiếp nào trong hệ thống chăm sóc sức khỏe. Quá trình này bao gồm việc xác định và liệt kê tất cả các loại thuốc mà bệnh nhân đang dùng (tên, liều lượng, tần suất, đường dùng) và so sánh danh sách kết quả với đơn thuốc của bác sĩ tại thời điểm chuyển tiếp. Sự đánh giá phù hợp thuốc cần được thực hiện ở mỗi lần di chuyển (nhập viện, chuyển và xuất viện).
Các chương trình đặt thuốc của bác sĩ được vi tính hóa và hệ thống hồ sơ bệnh án điện tử có thể kết hợp các cảnh báo kê đơn để cảnh báo bác sĩ lâm sàng về các vấn đề tiềm ẩn (ví dụ: dị ứng, cần giảm liều ở bệnh nhân suy thận, tương tác giữa các thuốc). Các chương trình này cũng có thể gợi ý các bác sĩ lâm sàng theo dõi chặt chẽ một số bệnh nhân về các tác dụng phụ của thuốc.