Thuốc điều trị tăng huyết áp ở trẻ em

TheoMichael A. Ferguson, MD, Harvard Medical School
Xem xét bởiMichael SD Agus, MD, Harvard Medical School
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 4 2025
v55260572_vi

Điều trị bằng thuốc ngay lập tức thường được bắt đầu (cùng với thay đổi lối sống) cho trẻ em có:

  • Tăng huyết áp có triệu chứng ở bất kỳ giai đoạn hoặc mức độ nào

  • Tăng huyết áp giai đoạn 1 có bất kỳ bằng chứng nào về rối loạn chức năng hoặc tổn thương cơ quan đích

  • Tăng huyết áp giai đoạn 2 ngay cả với một yếu tố nguy cơ rõ ràng, có thể điều chỉnh được (ví dụ: béo phì), cần được giải quyết trong khi huyết áp (BP) đang được kiểm soát

  • Bất kỳ giai đoạn nào của tăng huyết áp nếu họ bị bệnh thận mạn tính, bệnh tiểu đường và bệnh tim

Nếu mức độ nặng của tăng huyết áp đến mức đe dọa tính mạng và có thể gây ra (hoặc đã gây ra) tổn thương cơ quan đích đáng kể thì tình trạng này sẽ được phân loại và điều trị là tăng huyết áp cấp tính nặng.

Ở trẻ em bị tăng huyết áp ở mức bình thường cao hoặc tăng huyết áp ranh giới hoặc tăng huyết áp giai đoạn 1 không có triệu chứng hoặc rối loạn chức năng cơ quan đích, cần bắt đầu thay đổi lối sống và nếu những thay đổi này không làm giảm huyết áp đủ trong vòng khoảng 6 tháng, có thể cần phải điều trị bằng thuốc (1).

Nhìn chung, điều trị bằng thuốc nên bắt đầu bằng một loại thuốc duy nhất ở mức liều thấp và tăng dần cho đến khi kiểm soát được huyết áp, đạt đến mức liều cao hoặc xuất hiện các tác dụng bất lợi ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc. Vào thời điểm đó, nếu mục tiêu huyết áp không đạt được, có thể thêm thuốc thứ hai và điều chỉnh như thuốc ban đầu. Các loại thuốc uống được sử dụng để điều trị tăng huyết áp bao gồm:

Điều trị bằng đường uống cho tăng huyết áp dai dẳng ở trẻ em, thường nên bắt đầu bằng thuốc ức chế men chuyển/ARB, CCB hoặc thuốc lợi tiểu thiazide. Nhiều loại thuốc trong các nhóm này có thể được dùng dưới dạng liều duy nhất mỗi ngày. Thuốc ức chế ACE hoặc ARB nên được sử dụng ở những bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính hoặc tiểu đường vì những loại thuốc này cũng có thể bảo vệ thận. CCB thường được ưu tiên sử dụng ở những bé gái đã có kinh nguyệt do nguy cơ gây quái thai nếu dùng thuốc ức chế men chuyển ACE và/hoặc ARB trong thời kỳ mang thai.

Nếu điều trị ban đầu bằng một loại thuốc duy nhất không đạt được huyết áp mục tiêu, cần phải thêm một loại thuốc thứ hai. Nếu thuốc đầu tiên là thuốc ức chế men chuyển ACE hoặc ARB, thuốc lợi tiểu thiazide đã được chứng minh là có hiệu quả tốt khi dùng làm thuốc thứ hai, nhưng cũng có thể thêm CCB thay thế. Nếu loại thuốc đầu tiên là CCB, thì thuốc ức chế ACE hoặc ARB thường có tác dụng như loại thuốc thứ hai. Nếu có nguy cơ mang thai, cần tránh dùng thuốc ức chế ACE và ARB, thay vào đó có thể thử dùng thuốc lợi tiểu thiazid hoặc thuốc khác.

Nhiều loại thuốc hạ huyết áp có thể được lấy hoặc bào chế dưới dạng hỗn dịch uống cho trẻ em không thể uống thuốc viên hoặc viên nang và khi cần dùng liều không chuẩn.

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Flynn JT, Kaelber DC, Baker-Smith CM, et al: Clinical practice guideline for screening and management of high blood pressure in children and adolescents. Pediatrics 140(3):e20171904, 2017. doi: 10.1542/peds.2017-1904

Thuốc cường adrenergic

Thuốc cường adrenergic bao gồm thuốc chủ vận alpha-2 trung ương, thuốc chẹn alpha-1 sau synap và thuốc chẹn beta (xem bảng Thuốc adrenergic đường uống điều trị tăng huyết áp ở trẻ em).

Bảng
Bảng

Thuốc chủ vận alpha-2 (ví dụ, clonidine) kích thích thụ thể alpha-2-adrenergic ở thân não và làm giảm hoạt động thần kinh giao cảm, hạ BP. Vì thuốc có tác dụng trung ương nên có khả năng gây buồn ngủ, lờ đờ và trầm cảm cao hơn các thuốc chống tăng huyết áp khác; thuốc không được sử dụng rộng rãi. Clonidine có thể được dán xuyên da một lần một tuần dưới dạng miếng dán; do đó, thuốc này có thể hữu ích cho những bệnh nhân gặp khó khăn trong việc tuân thủ điều trị.

Thuốc chẹn alpha-1 sau synap (ví dụ: prazosin, terazosin, doxazosin) không được sử dụng để điều trị chính chứng tăng huyết áp vì bằng chứng cho thấy không làm giảm tỷ lệ tử vong.

Thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE)

Thuốc ức chế men chuyển (xem bảng Thuốc ức chế men chuyển đường uống điều trị tăng huyết áp ở trẻ em) làm giảm huyết áp bằng cách can thiệp vào quá trình chuyển đổi angiotensin I thành angiotensin II và ức chế quá trình thoái hóa bradykinin, do đó làm giảm sức cản mạch ngoại vi mà không gây nhịp tim nhanh phản xạ. Những loại thuốc này có tác dụng làm giảm huyết áp ở nhiều bệnh nhân tăng huyết áp, bất kể hoạt động của renin trong huyết tương. Vì những loại thuốc này có tác dụng bảo vệ thận nên đó là các thuốc được lựa chọn cho bệnh nhân tiểu đường, trẻ em bị tăng huyết áp và nhiều loại bệnh thận.

Ho khan, ho kích ứng là tác dụng bất lợi phổ biến nhất (ít gặp hơn ở trẻ em so với người lớn), nhưng phù mạch là nghiêm trọng nhất và có thể gây tử vong nếu ảnh hưởng đến hầu họng. Phù mạch thường gặp nhất ở bệnh nhân da đen và bệnh nhân hút thuốc. Các thuốc ức chế ACE có thể làm tăng nồng độ kali và creatinine huyết thanh, đặc biệt ở những bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính và những người dùng thuốc lợi tiểu giữ kali, các chế phẩm bổ sung kali hoặc NSAID. Thuốc ức chế ACE bị chống chỉ định trong thời kỳ mang thai và nên sử dụng thận trọng cho phụ nữ vị thành niên có nguy cơ mang thai. Ở những bệnh nhân bị bệnh thận gây suy thận, nồng độ creatinin huyết thanh và kali cần được kiểm tra trong vòng 2 tuần đến 4 tuần kể từ khi bắt đầu điều trị. Nếu nồng độ tăng lên, thì cần theo dõi nồng độ ít nhất 3 tháng đến 6 tháng một lần (thường xuyên hơn nếu mức tăng đáng kể). Thuốc ức chế ACE có thể gây tổn thương thận cấp tính ở những bệnh nhân bị giảm thể tích máu, suy tim nặng, hẹp động mạch thận hai bên nặng hoặc hẹp động mạch nặng đối với thận đơn độc.

Bảng
Bảng

Thuốc lợi tiểu loại thiazide tăng cường hoạt tính hạ huyết áp của thuốc ức chế men chuyển hơn so với các nhóm thuốc hạ huyết áp khác. Spironolactone và eplerenone cũng xuất hiện để tăng cường tác dụng của các thuốc ức chế ACE.

Thuốc chẹn thụ thể angiotensin II (ARB)

Thuốc ARB (xem bảng Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II đường uống (ARB) điều trị bệnh tăng huyết áp ở trẻ em) chặn thụ thể angiotensin II và do đó can thiệp vào hệ thống renin-angiotensin cũng như thuốc ức chế ACE. Thuốc ARB và thuốc ức chế ACE có hiệu quả tương đương với thuốc hạ huyết áp. ARB có thể có thêm các lợi ích khác nhờ vào việc chặn thụ thể ACE ở mô. Hai loại thuốc này có tác dụng tương tự ở bệnh nhân suy thất trái hoặc bệnh thận do tiểu đường và các loại bệnh thận khác. ARB không nên được sử dụng cùng với thuốc ức chế ACE. Thuốc ARB có thể được bắt đầu sử dụng một cách an toàn ở trẻ em và thanh thiếu niên có chức năng thận suy giảm, nhưng cần kiểm tra nồng độ creatinine và kali sau 1 tuần đến 4 tuần. Nếu nồng độ tăng, cần theo dõi ít ​​nhất 3 tháng đến 6 tháng một lần (thường xuyên hơn nếu nồng độ tăng đáng kể).

Bảng
Bảng

Tỷ lệ bị các tác dụng bất lợi thấp; phù mạch có thể xảy ra nhưng ít hơn nhiều so với thuốc ức chế ACE. Thận trọng khi sử dụng ARB ở bệnh nhân tăng huyết áp mạch máu, giảm thể tích tuần hoàn và suy tim nặng cũng giống như đối với thuốc ức chế ACE (xem bảng Thuốc ức chế ACE trong điều trị bệnh tăng huyết áp ở trẻ em). ARB bị chống chỉ định trong thai kỳ và ở thanh thiếu niên có thể mang thai.

Thuốc chẹn kênh canxi (CCB)

CCB (xem bảng Thuốc chẹn kênh canxi (CCB) đường uống để điều trị tăng huyết áp ở trẻ em) là thuốc giãn mạch ngoại vi và làm giảm huyết áp bằng cách giảm tổng sức cản mạch ngoại vi (TPR); đôi khi thuốc này gây nhịp tim nhanh phản xạ, nhưng những loại thuốc này có tác dụng trực tiếp tối thiểu lên tim.

Bảng
Bảng

Thuốc lợi tiểu thiazide

Ngoài các tác dụng hạ huyết áp khác, thuốc lợi tiểu thiazide (xem bảng Thuốc lợi tiểu thiazide uống cho bệnh tăng huyết áp ở trẻ em) gây giãn mạch một lượng nhỏ miễn là thể tích nội mạch vẫn bình thường. Tất cả các thiazide đều có hiệu quả như nhau với liều lượng tương đương.

Thuốc lợi tiểu thiazide làm mất kali, vì vậy cần theo dõi kali huyết thanh cho đến khi mức ổn định. Trừ khi kali huyết thanh bình thường, đóng các kênh kali trên thành động mạch và co thắt mạch máu gây khó khăn cho việc đạt được huyết áp mục tiêu. Bệnh nhân có nồng độ kali < 3,5 mEq/L (< 3,5 mmol/L) được bổ sung kali hoặc được hướng dẫn về những thay đổi chế độ ăn uống có thể làm tăng lượng kali. Hạ kali máu ít là vấn đề hơn ở trẻ em bị tăng huyết áp, khi đó thiazide thường được phối hợp với thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE) hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin II (ARB), có xu hướng làm tăng nồng độ kali.

Bảng
Bảng

Ở hầu hết bệnh nhân đái tháo đường, thuốc lợi tiểu thiazid không ảnh hưởng đến việc kiểm soát bệnh. Một số ít trường hợp, thuốc lợi tiểu có thể làm kết tủa các chất chuyển hóa, làm tăng nặng hơn bệnh đái tháo đường loại 2 ở những bệnh nhân có kèm theo các hội chứng rối loạn chuyển hóa.

Thuốc giãn mạch trực tiếp

Thuốc giãn mạch trực tiếp, bao gồm minoxidil và hydralazine (xem bảng Thuốc giãn mạch trực tiếp đường uống cho bệnh tăng huyết áp ở trẻ em), tác động trực tiếp lên mạch máu, độc lập với hệ thần kinh tự chủ. Minoxidil có hiệu lực hơn hydralazine nhưng có nhiều tác dụng bất lợi hơn, bao gồm giữ natri và nước và chứng rậm lông. Minoxidil nên được dành riêng cho tình trạng tăng huyết áp nặng, kháng trị.

Bảng
Bảng

Hydralazine được sử dụng cho phụ nữ có thai (ví dụ, đối với tiền sản giật) như là thuốc hạ áp bổ sung. Hydralazine liều cao, tác dụng kéo dài (> 300 mg/ngày) có liên quan đến hội chứng lupus do thuốc, hội chứng này sẽ khỏi khi ngừng thuốc.

quizzes_lightbulb_red
Test your KnowledgeTake a Quiz!