(Xem thêm Rối loạn co giật ở trẻ sơ sinh)
Co giật do sốt xảy ra ở khoảng 2% đến 5% (1) số trẻ từ 6 tháng tuổi đến 5 tuổi và hầu hết xảy ra ở độ tuổi từ 12 tháng tuổi đến 18 tháng tuổi.
Co giật do sốt có thể đơn thuần hoặc phức hợp:
Co giật do sốt đơn thuần kéo dài < 15 phút không có đặc điểm khu trú và không tái phát trong vòng 24 giờ; hầu hết các cơn co giật do sốt đều đơn giản.
Co giật do sốt phức hợp kéo dài ≥ 15 phút liên tục hoặc tạm dừng; hoặc có khu trú; hoặc khởi phát khu trú; hoặc tái phát trong vòng 24 giờ.
Các yếu tố nguy cơ gây co giật do sốt bao gồm:
Có thể xảy ra trong quá trình nhiễm vi rút không ở hệ thần kinh trung ương và ít gặp hơn trong quá trình nhiễm vi khuẩn (chủ yếu là do một số bệnh nhiễm vi rút như herpesvirus 6 ở người [HHV-6] và cúm có liên quan đến mức độ sốt rất cao)
Đôi khi xảy ra sau khi tiêm một số loại vắc-xin, chẳng hạn như sởi/quai bị/rubella (2)
Các yếu tố di truyền và gia đình dường như làm tăng khả năng bị co giật do sốt. Các cặp sinh đôi cùng trứng có tỷ lệ mắc cao hơn nhiều so với các cặp sinh đôi khác trứng. Một số gen liên quan đến co giật do sốt đã được xác định (3).
Tiền sử chậm phát triển có liên quan đến tăng nguy cơ bị động kinh sau co giật do sốt (4).
Tài liệu tham khảo chung
1. Christensen KJ, Dreier JW, Skotte L, et al. Birth characteristics and risk of febrile seizures. Acta Neurol Scand. 2021;144(1):51-57. doi:10.1111/ane.13420
2. Klein NP, Fireman B, Yih WK, et al. Measles-mumps-rubella-varicella combination vaccine and the risk of febrile seizures. Pediatrics. 2010;126(1):e1-e8. doi:10.1542/peds.2010-0665
3. Saghazadeh A, Mastrangelo M, Rezaei N. Genetic background of febrile seizures. Rev Neurosci. 2014;25(1):129-161. doi:10.1515/revneuro-2013-0053
4. Nelson KB, Ellenberg JH. Predictors of epilepsy in children who have experienced febrile seizures. N Engl J Med. 1976;295(19):1029–1033. doi:10.1056/NEJM197611042951901
Các triệu chứng và dấu hiệu của co giật do sốt
Co giật do sốt thường xảy ra trong giai đoạn tăng nhanh nhiệt độ cơ thể ban đầu, và hầu hết gặp trong vòng 24 giờ đầu khởi phát sốt. Nhìn chung, nhiệt độ cao có vẻ quan trọng hơn trong việc ảnh hưởng đến sự khởi phát của các cơn co giật so với tốc độ gia tăng tương đối của nhiệt độ. Điển hình, cơn giật toàn thân; hầu hết là giật rung, nhưng đôi khi biểu hiện giai đoạn mất trương lực hoặc cơn trương lực.
Giai đoạn sau cơn thường kéo dài một vài phút nhưng có thể kéo dài vài giờ. Buồn ngủ là tình trạng thường gặp trong giai đoạn này; lú lẫn và kích động ít gặp hơn nhưng vẫn có thể xảy ra. Nếu giai đoạn sau cơn bệnh kéo dài hơn một giờ hoặc nếu trẻ có các triệu chứng khu trú (ví dụ: giảm vận động ở một bên) trong giai đoạn này, trẻ cần được đánh giá xem có bệnh ở hệ thần kinh trung ương (CNS) cấp tính tiềm ẩn hay không. Phục hồi về trạng thái thần kinh ở lần khám ban đầu thường diễn ra nhanh chóng.
Trạng thái động kinh do sốt là các cơn co giật liên tục hoặc ngắt quãng kéo dài ≥ 30 phút. Khi trạng thái động kinh biểu hiện dưới dạng co giật ngắt quãng, các cơn co giật xảy ra mà không có phục hồi thần kinh giữa các cơn. Trẻ em bị trạng thái động kinh do sốt có nguy cơ bị tổn thương não, đặc biệt là tổn thương hồi hải mã cấp tính có thể tiến triển thành xơ cứng, có khả năng dẫn đến động kinh thùy thái dương (1).
Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu
1. Hesdorffer DC, Shlomo S, Lax DN, et al: Risk factors for subsequent febrile seizures in the FEBSTAT study. Ann Rheum Dis 57(7):1042–1047, 2016. doi: 10.1111/epi.13418
Chẩn đoán co giật do sốt
Đánh giá để loại trừ các nguyên nhân khác
Co giật do sốt được đưa ra chẩn đoán sau khi loại trừ các nguyên nhân khác. Sốt có thể gây ra các cơn co giật ở trẻ em đã từng bị co giật không sốt trước đó; những trường hợp như vậy không được gọi là co giật do sốt vì những trẻ này có tiềm ẩn xu hướng bị co giật.
Không cần xét nghiệm thường quy đối với các cơn co giật do sốt đơn giản ngoài việc xác định nguồn gốc gây sốt, nhưng nếu trẻ bị co giật do sốt phức tạp, khiếm khuyết thần kinh hoặc dấu hiệu của bệnh nền nghiêm trọng (ví dụ: viêm màng não, bệnh chuyển hóa), cần tiến hành đánh giá thêm (1, 2).
Đánh giá để loại trừ các bệnh lý khác dựa trên bối cảnh lâm sàng:
Phân tích dịch não tủy (CSF): Chỉ loại trừ viêm màng não và viêm não ở trẻ nhỏ khi các đặc điểm lâm sàng cho thấy rõ có các bệnh này (ví dụ: ở những trẻ có dấu hiệu màng não hoặc dấu hiệu ức chế hệ thần kinh trung ương) hoặc ở những trẻ bị co giật sau nhiều ngày sốt; cũng phải nghĩ đến nếu trẻ chưa được tiêm chủng đầy đủ hoặc đang dùng thuốc kháng sinh
Xét nghiệm glucose huyết thanh, natri, canxi, magiê, phốt pho, chức năng gan và chức năng thận: Để loại trừ các bệnh chuyển hóa, đặc biệt là nếu tiền sử bao gồm nôn, tiêu chảy hoặc uống ít nước gần đây; nếu có dấu hiệu mất nước hoặc phù nề; hoặc nếu xảy ra co giật phức tạp do sốt
Cấy máu và cấy nước tiểu: Để xác định nguyên nhân có thể gây sốt (3)
Chụp MRI não: Nếu khám thần kinh phát hiện các bất thường khu trú, nếu các đặc điểm khu trú xảy ra trong cơn co giật hoặc giai đoạn sau cơn bệnh hoặc nếu tình trạng suy giảm cảm giác sau cơn bệnh kéo dài; không khuyến nghị ở trẻ em bị co giật đơn thuần do sốt
Điện não đồ (EEG): Nếu co giật do sốt có đặc điểm khu trú hoặc tái phát (EEG thường không xác định được các bất thường cụ thể hoặc không giúp dự đoán các cơn co giật tái phát và không được khuyến nghị sau cơn co giật đơn thuần do sốt ban đầu ở trẻ em có kết quả khám thần kinh bình thường.)
Đánh giá chẩn đoán dựa trên bệnh nền được thực hiện nếu trẻ đã được xác định bị rối loạn phát triển hoặc bệnh thần kinh (thường thì chẩn đoán co giật do sốt là không chính xác trong những trường hợp như vậy).
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. Smith DK, Sadler KP, Benedum M. Febrile Seizures: Risks, Evaluation, and Prognosis. Am Fam Physician. 2019;99(7):445-450.
2. Subcommittee on Febrile Seizures; American Academy of Pediatrics. Neurodiagnostic evaluation of the child with a simple febrile seizure. Pediatrics. 2011;127(2):389-394. doi:10.1542/peds.2010-3318
3. Pantell RH, Roberts KB, Adams WG, et al. Evaluation and Management of Well-Appearing Febrile Infants 8 to 60 Days Old [published correction appears in Pediatrics. Tháng 11 năm 2021;148(5):e2021054063. doi: 10.1542/peds.2021-054063.]. Pediatrics. 2021;148(2):e2021052228. doi:10.1542/peds.2021-052228
Điều trị chứng co giật do sốt
Điều trị hạ sốt
Điều trị hỗ trợ trong thời gian co giật < 5 phút
Thuốc chống co giật và đôi khi đặt nội khí quản đối với thời gian co giật ≥ 5 phút
Tất cả trẻ em nên được điều trị hạ sốt cho đến khi hết sốt vì hạ nhiệt độ có thể giúp ngăn ngừa một cơn co giật do sốt khác trong thời gian bị bệnh ngay lập tức để giải quyết trong giai đoạn cấp tính của tình trạng động kinh do sốt. Tuy nhiên, việc cho trẻ dùng thuốc hạ sốt khi bắt đầu bị sốt chưa được chứng minh là có thể ngăn ngừa co giật do sốt (1).
Xử trí co giật do sốt mang tính hỗ trợ nếu cơn co giật kéo dài < 5 phút.
Các cơn co giật kéo dài ≥ 5 phút có thể cần phải dùng thuốc để cắt cơn, đồng thời theo dõi cẩn thận tình trạng tuần hoàn và hô hấp. Có thể cần phải đặt nội khí quản nếu cơn co giật vẫn tiếp diễn mặc dù đã điều trị hoặc nếu liệu pháp chống co giật dẫn đến ngưng thở.
Thuốc thường được dùng theo đường tĩnh mạch, kết hợp với benzodiazepine tác dụng ngắn (ví dụ: lorazepam lặp lại từ 5 phút đến 10 phút một lần, tối đa 3 liều). Fosphenytoin có thể được cho dùng trong 15 phút đến 30 phút nếu cơn co giật vẫn còn.
Nếu không có đường truyền tĩnh mạch hoặc trẻ đang ở trong môi trường trước khi nhập viện và trên 2 tuổi, có thể dùng diazepam gel đường trực tràng hoặc midazolam xịt mũi.
Phenobarbital, valproate, hoặc levetiracetam cũng có thể được dùng để điều trị cơn co giật kéo dài.
Một số bác sĩ lâm sàng kê đơn gel diazepam theo đường trực tràng cho trẻ em bị co giật do sốt tái phát (xem Phòng ngừa co giật do sốt) để cha mẹ cho trẻ dùng tại nhà khi co giật do sốt kéo dài.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Corsello A, Marangoni MB, Macchi M, et al. Febrile Seizures: A Systematic Review of Different Guidelines. Pediatr Neurol. 2024;155:141-148. doi:10.1016/j.pediatrneurol.2024.03.024
Tiên lượng về co giật do sốt
Sự tái phát và động kinh sau này
Tỷ lệ tái phát chung của co giật do sốt là khoảng 20% đến 35% (1). Nguy cơ tái phát cao hơn nếu trẻ < 1 tuổi khi cơn co giật đầu tiên xảy ra, với số lượng cơn co giật do sốt ngày càng tăng hoặc nếu trẻ có người cùng huyết thống cấp độ một bị các cơn co giật do sốt.
Nguy cơ bị bệnh co giật không sốt sau khi có ≥ 1 cơn co giật do sốt đơn thuần là khoảng 2% đến 6%—cao hơn một chút so với nguy cơ ban đầu mắc bệnh động kinh (khoảng 2% ở trẻ em nói chung) (2). Hầu hết nguy cơ gia tăng xảy ra ở trẻ em có các yếu tố nguy cơ bổ sung (ví dụ: co giật do sốt phức tạp, tiền sử gia đình bị co giật, chậm phát triển); ở những trẻ này, nguy cơ lên tới 10% (3). Không rõ là liệu cơn co giật do sốt có thể tự mình hạ thấp ngưỡng co giật hoặc liệu một số yếu tố tiềm ẩn dẫn tới trẻ có cơn co giật do sốt hoặc không do sốt hay không.
Di chứng thần kinh
Co giật do sốt đơn thuần không gây bất thường về thần kinh. Tuy nhiên, ở một số trẻ em, co giật do sốt có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh co giật tiềm ẩn hoặc bệnh thần kinh chưa được phát hiện. Các dấu hiệu của rối loạn có thể được xác định hồi cứu hoặc có thể không xuất hiện cho đến sau này. Trong cả hai trường hợp, cơn co giật sốt không được coi là nguyên nhân.
Trạng thái động kinh do sốt có thể liên quan đến tổn thương các phần dễ bị tổn thương của não như hồi hải mã.
Tài liệu tham khảo về tiên lượng
1. Berg AT, Shinnar S, Darefsky AS, et al. Predictors of recurrent febrile seizures. A prospective cohort study. Arch Pediatr Adolesc Med. 1997;151(4):371-378. doi:10.1001/archpedi.1997.02170410045006
2. Kim JS, Woo H, Kim WS, Sung WY. Clinical Profile and Predictors of Recurrent Simple Febrile Seizure. Pediatr Neurol. 2024;156:4-9. doi:10.1016/j.pediatrneurol.2024.04.001
3. Nelson KB, Ellenberg JH. Predictors of epilepsy in children who have experienced febrile seizures. N Engl J Med. 1976;295(19):1029–1033. doi:10.1056/NEJM197611042951901
Phòng ngừa co giật do sốt
Cha mẹ của trẻ bị co giật do sốt nên được khuyên theo dõi cẩn thận nhiệt độ của trẻ trong thời gian trẻ bị bệnh. Hầu hết các bác sĩ lâm sàng khuyên nên dùng thuốc hạ sốt nếu nhiệt độ cơ thể tăng cao (mặc dù các nghiên cứu có đối chứng không chứng minh được phương pháp điều trị này có thể ngăn ngừa co giật do sốt tái phát).
Thuốc chống co giật liều duy trì để ngăn ngừa co giật do sốt tái phát hoặc phát triển co giật không sốt thường không được chỉ định (1). Tuy nhiên, các tình huống cần cân nhắc sử dụng thuốc chống co giật (2) bao gồm trẻ em có
Co giật do sốt phức tạp và suy giảm thần kinh
Tiền sử gia đình rõ về động kinh và các cơn co giật do sốt đơn giản hoặc phức tạp tái phát
Tình trạng sốt động kinh
Co giật do sốt xảy ra ít nhất một lần mỗi quý
Tài liệu tham khảo về phòng ngừa
1. Steering Committee on Quality Improvement and Management, Subcommittee on Febrile Seizures American Academy of Pediatrics. Febrile seizures: clinical practice guideline for the long-term management of the child with simple febrile seizures. Pediatrics. 2008;121(6):1281-1286. doi:10.1542/peds.2008-0939
2. Piña-Garza J, James K: Paroxysmal Disorders: Febrile seizures. In Fenichel's Clinical Pediatric Neurology: A Signs and Symptoms Approach, ed. 8. Philadelphia, Elsevier, 2019, p. 18.
Những điểm chính
Co giật do sốt là các cơn co giật xảy ra ở trẻ em bình thường về thần kinh từ 6 tháng đến 5 tuổi bị sốt (nhiệt độ > 38° C không phải do nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương và không có tiền sử co giật không sốt.
Co giật do sốt đơn thuần kéo dài < 15 phút không có tính năng tiêu điểm và không lặp lại trong khoảng thời gian 24 giờ.
Co giật phức tạp do sốt kéo dài ≥ 15 phút liên tục hoặc có những khoảng dừng; hoặc có đặc điểm khu trú; hoặc khởi phát khu trú; hoặc tái phát trong vòng 24 giờ.
Xét nghiệm thường quy không cần thiết đối với co giật đơn giản do sốt, nhưng nếu trẻ bị các cơn co giật phức tạp, thiếu hụt thần kinh hoặc có dấu hiệu của một rối loạn nghiêm trọng tiềm ẩn (ví dụ: viêm màng não, rối loạn chuyển hóa), thì cần phải tiến hành xét nghiệm.
Các cơn co giật kéo dài ≥ 5 phút cần phải dùng thuốc (ví dụ: lorazepam lặp lại từ 5 phút đến 10 phút một lần, tối đa 3 liều).
Nguy cơ bị co giật không sốt sau khi bị ≥ 1 cơn co giật do sốt đơn thuần là khoảng 2% đến 6%.
Hạ sốt khi bắt đầu một bệnh có sốt đã không được chứng minh là ngăn ngừa cơn co giật do sốt.