Sản sinh và chức năng của bạch cầu ái toan

TheoJane Liesveld, MD, James P. Wilmot Cancer Institute, University of Rochester Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 1 2024

    Bạch cầu ái toan là bạch cầu hạt (tế bào bạch cầu có chứa các hạt trong tế bào chất) có nguồn gốc từ cùng một tế bào gốc như bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, bạch cầu trung tính và bạch cầu ưa basơ. Chúng là một thành phần của hệ thống miễn dịch bẩm sinh. Bạch cầu ái toan có nhiều chức năng khác nhau, bao gồm

    • Phòng chống nhiễm ký sinh trùng

    • Phòng chống vi khuẩn nội bào

    • Điều chỉnh phản ứng quá mẫn tức thời

    Bạch cầu ái toan đặc biệt quan trọng trong việc phòng chống nhiễm trùng ký sinh trùng. Tuy nhiên, mặc dù chứng tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm với nhiễm giun sán và bạch cầu ái toan có độc với giun sán in vitro, nhưng không có bằng chứng trực tiếp nào cho thấy các bạch cầu này có thể tiêu diệt ký sinh trùng in vivo.

    Mặc dù có khả năng thực bào, nhưng bạch cầu ái toan kém hiệu quả hơn bạch cầu trung tính trong việc tiêu diệt vi khuẩn nội bào.

    Bạch cầu ái toan có thể điều chỉnh các phản ứng quá mẫn tức thời bằng cách phân hủy hoặc bất hoạt các chất trung gian do tế bào mast giải phóng, chẳng hạn như histamine, leukotriene (có thể gây co mạch và co thắt phế quản), lysophospholipid và heparin.

    Tình trạng tăng bạch cầu ái toan kéo dài có thể gây tổn thương mô theo những cơ chế chưa được hiểu rõ.

    Sản sinh và chức năng của bạch cầu ái toan

    Quá trình sản sinh bạch cầu ái toan dường như được điều chỉnh bởi tế bào T thông qua việc tiết ra các yếu tố tăng trưởng tạo máu là yếu tố kích thích khuẩn lạc bạch cầu hạt-đại thực bào (GM-CSF), interleukin-3 (IL-3) và interleukin-5 (IL-5). Mặc dù GM-CSF và IL-3 cũng làm tăng sản sinh các tế bào dòng tủy khác, IL-5 chỉ làm tăng sản sinh bạch cầu ái toan.

    Các hạt của bạch cầu ái toan chứa protein cơ bản chính và protein cationic của bạch cầu ái toan; các protein này có độc đối với một số ký sinh trùng và tế bào động vật có vú. Những protein này gắn với heparin và trung hòa hoạt tính chống đông. Chất độc thần kinh có nguồn gốc từ bạch cầu ái toan có thể gây tổn thương nặng các tế bào thần kinh có myelin. Peroxidase của bạch cầu ái toan, khác biệt đáng kể so với peroxidase của các bạch cầu hạt khác, tạo ra các gốc oxy hóa khi có mặt hydro peroxide và halide. Tinh thể Charcot-Leyden chủ yếu bao gồm phospholipase B và có trong đờm, mô và phân trong các rối loạn có tình trạng tăng bạch cầu ái toan (ví dụ: hen suyễn, viêm phổi tăng bạch cầu ái toan).

    Số lượng bạch cầu ái toan

    Số lượng bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên bình thường thay đổi, nhưng nhìn chung người ta chấp nhận rằng số lượng > 500/mcL (> 0,5 × 109/L) được coi là cao. Tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên được đặc trưng bởi

    • Nhẹ: 500 đến 1500/mcL (0,5 đến 1,5 × 109/L)

    • Trung bình: 1500 to 5000/mcL (1,5 to 5 × 109/L)

    • Nặng: > 5000/mcL (> 5 × 109/L)

    Nồng độ ban ngày thay đổi tỷ lệ nghịch với nồng độ cortisol huyết tương; đỉnh điểm xảy ra vào ban đêm và đáy xảy ra vào buổi sáng.

    Số lượng bạch cầu ái toan có thể giảm do căng thẳng, sử dụng thuốc chẹn beta hoặc corticosteroid và đôi khi trong quá trình nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc vi-rút.

    Số lượng có thể tăng (tăng bạch cầu ái toan) trong các bệnh lý dị ứng, trong một số bệnh nhiễm trùng (thường là nhiễm ký sinh trùng) và do nhiều nguyên nhân khác.

    Thời gian bán hủy trong hệ tuần hoàn của bạch cầu ái toan là từ 6 giờ đến 12 giờ, hầu hết bạch cầu ái toan cư trú trong các mô (ví dụ: đường hô hấp trên, đường tiêu hóa, da, tử cung).

    Tình trạng phổ biến nhất liên quan đến số lượng bạch cầu ái toan thấp là hội chứng cushing. Mặc dù dữ liệu còn hạn chế nhưng đã cho thấy mối liên hệ giữa tình trạng giảm bạch cầu ái toan và thay đổi hô hấp khi nhiễm COVID-19; tuy nhiên, tình trạng tăng bạch cầu ái toan ở phổi không phải là một phần của bệnh lý phổi SARS-CoV-2 (1).

    Tài liệu tham khảo chung

    1. 1. Lindsley AW, Schwartz JT, Rothenberg ME: Eosinophil responses during COVID-19 infections and coronavirus vaccination. J Allergy Clin Immunol 146(1):1–7, 2020. doi: 10.1016/j.jaci.2020.04.021