- Các nguyên tắc chung về Ngộ độc
- Ngộ độc cá và Ngộ độc động vật có vỏ
- Ngộ độc Nấm
- Ngộ độc thực vật
- Ngộ độc Acetaminophen
- Aspirin và Ngộ độc Salicylate khác
- Ngộ độc Sắt
- Ngộ độc chì
- Nuốt phải chất ăn mòn
- Ngộ độc Phospho hữu cơ và Ngộ độc Carbamate
- Ngộ độc Hydrocacbon
- Ngộ độc Carbon Monoxide
- Các Triệu chứng và Điều trị các Chất độc Đặc hiệu
(Xem thêm Nguyên tắc chung về Ngộ độc.)
Phân biệt các loài độc và không độc trong tự nhiên là rất khó, ngay cả đối với những người có hiểu biết về nấm. Các kiến thức dân gian không đáng tin cậy, và cùng một loài có thể có mức độ độc tính khác nhau tùy thuộc vào nơi nào và thời điểm chúng được thu hoạch. Nếu bệnh nhân ăn một loại nấm không xác định, xác định được loài có thể giúp xác định điều trị cụ thể. Tuy nhiên, vì một bác sĩ chuyên khoa về bệnh nấm có kinh nghiệm hiếm khi sẵn sàng để tư vấn ngay, điều trị bệnh nhân ngộ độc nấm cần dựa vào các triệu chứng thu được. Nếu một mẫu nấm, chưa được ăn hoặc xuất hiện của từ dịch nôn, có thể được gửi đến một nhà nghiên cứu về nấm để phân tích.
Tất cả các nấm độc đều gây nôn ói và đau bụng; các biểu hiện khác thay đổi đáng kể theo loại nấm. Nhìn chung, nấm gây ra triệu chứng sớm (trong vòng 2 giờ) ít nguy hiểm hơn những loại nấm gây ra triệu chứng muộn hơn (thường là sau 5 giờ). Tuy nhiên, ăn một số loài Amanita (Amanita smithiana), hiện được biết là gây độc thận đáng kể, có thể biểu hiện các triệu chứng đường tiêu hóa trong vòng vài giờ sau khi tiêu thụ (1, 2).
Điều trị hầu hết các trường hợp ngộ độc nấm là triệu chứng và hỗ trợ. Than hoạt tính có thể hữu ích để hạn chế sự hấp thu. Nhiều liệu pháp giải độc đã được thử nghiệm, đặc biệt là đối với loài Amanita, nhưng chưa có liệu pháp nào cho thấy kết quả tích cực một cách nhất quán.
Hội chứng dạ dày-ruột (GI)
Nấm gây ra các triệu chứng đường tiêu hóa sớm (ví dụ, Chlorophyllum molybdites thường phát triển trong bãi cỏ) gây ra viêm dạ dày ruột, đôi khi đau đầu hoặc đau cơ. Tiêu chảy đôi khi lẫn máu.
Triệu chứng thường hồi phục trong vòng 24 giờ.
Điều trị là hỗ trợ.
Triệu chứng thần kinh ban đầu
Nấm gây ra các triệu chứng thần kinh sớm bao gồm nấm gây ảo giác, thường được ăn để giải trí vì có psilocybin, một chất gây ảo giác (3). Phổ biến nhất là các thành viên của chi Psilocybe, nhưng một số chi khác cũng chứa psilocybin.
Các triệu chứng bắt đầu trong vòng 15 đến 30 phút và bao gồm cảm giác hưng phấn, tăng khả năng tưởng tượng, và ảo giác. Nhịp tim nhanh và tăng huyết áp là thường gặp, và tăng thân nhiệt xảy ra ở một số trẻ; tuy nhiên, những hậu quả nghiêm trọng rất hiếm.
Điều trị đôi khi liên quan đến an thần (ví dụ, với benzodiazepine).
Các triệu chứng muscarin sớm
Một số loại nấm có chứa độc tố kích thích thụ thể cholinergic hệ muscarinic, do đó bắt chước tác động của acetylcholine trên các thụ thể này (độc tố không kích thích thụ thể cholinergic nicotinic). Nấm gây ra các triệu chứng muscarin sớm bao gồm các thành viên của Nấm Inocybe và Nấm Clitocybe.
Triệu chứng có thể bao gồm hội chứng SLUDGE (xem bảng Các hội chứng nhiễm độc thường gặp), bao gồm co đồng tử, co thắt phế quản, nhịp tim chậm, toát mồ hôi, thở khò khè và chuột rút. Các triệu chứng thường nhẹ, bắt đầu trong vòng 30 phút và hết trong vòng 12 giờ.
Atropine có thể được dùng để điều trị các triệu chứng muscarin nặng (ví dụ, thở khò khè, nhịp tim chậm).
Triệu chứng tiêu hóa muộn
Nấm gây ra các triệu chứng muộn ở đường tiêu hóa bao gồm các thành viên của chi Amanita (trừ A. smithiana), Gyromitra và Cortinarius genera.
Độc nhất trong Amanita là Amanita phalloides, gây 95% số người chết do ngộ độc. Viêm dạ dày ruột ban đầu, có thể xảy ra từ 6 đến 12 giờ sau khi nuốt phải, có thể nặng; hạ đường huyết có thể xảy ra. Các triệu chứng ban đầu giảm đi trong vài ngày; sau đó suy gan và đôi khi suy thận. Chăm sóc ban đầu bao gồm bù nước và điện giải, theo dõi chặt chẽ tình trạng hạ đường huyết và có thể dùng than hoạt tính nhiều lần. Điều trị suy gan có thể cần phải ghép gan; các phương pháp điều trị đặc hiệu khác (ví dụ: N-acetylcysteine, penicillin liều cao, silibinin, nhũ tương lipid đường tĩnh mạch) vẫn chưa được chứng minh.
Amanita smithiana nấm gây viêm dạ dày ruột muộn, thường từ 6 đến 12 giờ sau khi nuốt phải, và suy thận cấp (thường trong vòng 1 đến 2 tuần sau khi nuốt phải) thường đòi hỏi phải lọc máu.
Nấm Gyromitra nấm có thể gây hạ đường huyết đồng thời hoặc ngay sau khi viêm dạ dày ruột. Các biểu hiện khác có thể bao gồm độc tính của Thần kinh trung ương (ví dụ, động kinh) và, sau vài ngày, hội chứng gan thận. Chăm sóc ban đầu bao gồm việc theo dõi chặt chẽ tình trạng hạ đường huyết và có thể lặp lại liều lượng than hoạt tính. Các triệu chứng thần kinh được điều trị bằng pyridoxin 70 mg/kg truyền tĩnh mạch chậm trong vòng 4 đến 6 giờ (liều tối đa hàng ngày là 5 g); suy gan được điều trị hỗ trợ.
Phần lớn Nấm Cortinarius có nguồn gốc từ châu Âu. Viêm dạ dày ruột có thể kéo dài trong 3 ngày. Suy thận, có triệu chứng hạ sườn và nước tiểu giảm, có thể xuất hiện từ 3 đến 20 ngày sau khi ăn. Suy thận thường tự khỏi, nhưng có thể phải lọc máu trong một thời gian ngắn nếu chức năng thận không cải thiện trong 3 đến 5 ngày và tổn thương thận mạn tính có thể vĩnh viễn.
Các triệu chứng cơ bắp chậm phát triển
Một số loài nấm gây ra độc tính chậm với kết quả tiêu cơ vân, đôi khi gây tử vong. Loài Tricholoma có thể gây mệt mỏi, yếu cơ, đau cơ và tiêu cơ vân từ 24 đến 72 giờ sau khi uống. Loài Russula đã gây ra độc tính tương tự ảnh hưởng đến mô cơ tim dẫn đến nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, loạn nhịp tim và tử vong. Không có phương pháp điều trị cụ thể nào ngoài chăm sóc hỗ trợ.
Hội chứng thần kinh chậm phát triển
Một số nấm Clitocybe gây ra chứng đau hồng cầu, tức là dị cảm và rối loạn tiêu hóa nặng kèm theo phù và ban đỏ ở các chi xa, 24 giờ sau khi ăn phải. Axit nicotinic đường tĩnh mạch có thể là một phương pháp điều trị hiệu quả.
Hapalopilus rutilans gây ra hội chứng thần kinh trung ương chậm (hơn 12 giờ sau khi uống) chóng mặt, mất điều hòa, rối loạn thị giác, buồn ngủ và bệnh não.
Pleurocybella porrigens gây ra hội chứng chậm trễ (từ 1 ngày đến 31 ngày) bao gồm các triệu chứng như thay đổi ý thức, co giật, rung giật cơ, nói khó, bệnh não, suy hô hấp và tử vong.
Tài liệu tham khảo
1. Diaz JH. Nephrotoxic Mushroom Poisoning: Global Epidemiology, Clinical Manifestations, and Management. Wilderness Environ Med. 2021;32(4):537-544. doi:10.1016/j.wem.2021.09.002
2. Schmutz M, Carron PN, Yersin B, et al. Mushroom poisoning: a retrospective study concerning 11-years of admissions in a Swiss Emergency Department. Intern Emerg Med. 2018;13(1):59-67. doi:10.1007/s11739-016-1585-5
3. Passie T, Seifert J, Schneider U, et al. The pharmacology of psilocybin. Addict Biol. 2002;7(4):357-364. doi:10.1080/1355621021000005937