Nhiễm khuẩn Acinetobacter

TheoLarry M. Bush, MD, FACP, Charles E. Schmidt College of Medicine, Florida Atlantic University;
Maria T. Vazquez-Pertejo, MD, FACP, Wellington Regional Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 9 2022

Các loài Acinetobacter là những sinh vật gram âm có thể gây nhiễm trùng ở bất kỳ hệ cơ quan nào; những vi khuẩn này thường gây cơ hội ở những bệnh nhân nằm viện.

Acinetobacter là các chủng vi khuẩn gram âm hiếu khí thuộc về họ Neisseriaceae. Chúng có thể tồn tại trên bề mặt khô trong vòng 1 tháng và thường được mang trên da lành của nhân viên y tế, làm tăng khả năng lây nhiễm cho bệnh nhân đang nằm viện và các thiết bị y tế. Có rất nhiều loài Acinetobacter; tất cả đều có thể gây bệnh cho người, nhưng Acinetobacter baumannii chiếm khoảng 80% số ca nhiễm bệnh (1).

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Wong D, Nielsen TB, Bonomo RA, et al: Clinical and pathophysiological overview of Acinetobacter infections: A century of challenges. Clin Microbiol Rev 30(1):409–447, 2017. doi: 10.1128/CMR.00058-16

Bệnh do Acinetobacter

Các biểu hiện phổ biến nhất của Acinetobacter bệnh

  • Nhiễm trùng đường hô hấp

Nhiễm trùng AB thường xảy ra ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, nằm viện. Nhiễm trùng do cộng đồng (chủ yếu là viêm phổi) phổ biến hơn ở những vùng có khí hậu nhiệt đới. Tỷ lệ tử vong liên quan đến nhiễm A. baumannii (AB) là 19 đến 54%.

Acinetobacter có thể gây ra viêm phế quản và viêm phổi cộng đồng ở trẻ em khỏe mạnh và viêm phế quản ở những người trưởng thành bị suy giảm miễn dịch. Acinetobacter dễ dàng xâm nhập vào các chỗ mở khí quản. Viêm phổi bệnh viện do Acinetobacter gây ra thường gặp và phức tạp. Nhiễm khuẩn máu thứ phát và sốc nhiễm khuẩn thường có tiên lượng xấu.

Các loài Acinetobacter cũng có thể gây ra các nhiễm trùng (ví dụ: áp xe) trong bất kỳ hệ thống cơ quan nào, bao gồm phổi, đường tiết niệu, da và các mô mềm; vãng khuẩn huyết có thể xảy ra.

Hiếm khi, các vi khuẩn này gây ra viêm màng não (chủ yếu sau các can thiệp phẫu thuật thần kinh), viêm tế bào hoặc viêm tĩnh mạch ở bệnh nhân có catheter tĩnh mạch; nhiễm trùng ở mắt; viêm nội tâm mạc van nguyên sinh hoặc van tim nhân tạo; viêm tủy xương; viêm khớp tự hoại; hoặc áp xe tụy và gan.

Tầm quan trọng của việc phân lập Acinetobacter mẫu bệnh phẩm, ví dụ như các chất bài tiết hô hấp từ các bệnh nhân đặt nội khí quản hoặc mẫu bệnh phẩm từ các vết thương hở, rất khó xác định vì chúng có thể là bội nhiễm từ môi trường.

Các yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ nhiễm Acinetobacter tùy thuộc vào loại nhiễm trùng (mắc phải tại bệnh viện, mắc phải tại cộng đồng, đa kháng thuốc - xem bảng Các yếu tố nguy cơ nhiễm Acinetobacter).

Bảng
Bảng

Kháng thuốc ở Acinetobacter

Gần đây, AB đa kháng thuốc (MDR) đã xuất hiện, đặc biệt là ở những bệnh nhân có suy giảm hệ miễn dịch trong các khoa hồi sức tích cực (ICU), những bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa nghiêm trọng và những bệnh nhân điều trị kháng sinh phổ rộng sau một thủ thuật xâm lấn. Sự lây lan trong các ICU được cho là do các bác sĩ chăm sóc sức khỏe khu vực, thiết bị thông thường bị ô nhiễm và các dung dịch dinh dưỡng qua đường tiêu hóa bị ô nhiễm. Ngoài ra, số ca nhiễm vi khuẩn AB đa kháng thuốc đã gia tăng ở các thành viên dịch vụ bị thương và điều trị ở Iraq, Kuwait và Afghanistan.

Điều trị nhiễm Acinetobacter

  • Thông thường là đa liệu pháp thực hiện cho các bệnh nhiễm trùng nặng

Ở những bệnh nhân bị viêm tụy hoặc viêm tĩnh mạch cục bộ có liên quan đến các can thiệp ngoài cơ thể (ví dụ, ống thông IV, chỉ khâu), việc cắt bỏ các can thiêp từ ngoài cơ thể cộng với chăm sóc tại chỗ thường là đủ. Viêm khí phế quản sau khi đặt nội khí quản có thể xử trí đơn thuần bằng chăm sóc vệ sinh đường thở. Bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng hơn nên được điều trị bằng thuốc kháng sinh và phẫu thuật nếu cần thiết.

AB từ lâu đã tự đề kháng với nhiều loại kháng sinh. MDR-AB được định nghĩa là các chủng kháng lại 3 loại kháng sinh; một số chủng kháng với tất cả kháng sinh. Trước khi có kết quả kháng sinh đồ, các lựa chọn ban đầu có thể bao gồm carbapenem (ví dụ: meropenem, imipenem), colistin, hoặc fluoroquinolone cộng với aminoglycoside, rifampin hoặc cả hai. Sulbactam (chất ức chế beta-lactamase) có hoạt tính diệt khuẩn đối với nhiều dòng MDR-AB. Tigecycline, kháng sinh nhóm glycylcycline, cũng có hiệu quả; tuy nhiên, hoạt độ đỉnh và sự xuất hiện của kháng thuốc trong quá trình điều trị đã được báo cáo. Minocycline có hoạt tính in vitro giống như kháng sinh siderophore-cephalosporin mới, cefiderocol (1).

Nhiễm trùng nhẹ đến trung bình có thể đáp ứng với đơn liệu pháp. Nhiễm trùng vết thương do các chủng nhạy cảm gây ra có thể được điều trị bằng minocycline.

Nhiễm AB nghiêm trọng được điều trị bằng liệu pháp kết hợp — điển hình là carbapenems (imipenem hoặc meropenem) hoặc ampicillin/sulbactam cộng với aminoglycoside; khi tình trạng kháng thuốc quá cao, tigecycline, cefiderocol hoặc kết hợp colistin với minocycline có thể là những lựa chọn khả dụng duy nhất.

Để dự phòng lây nhiễm, các bác sĩ cần sử dụng các biện pháp dự phòng một cách hệ thống (rửa tay, các phương pháp khử khuẩn), chăm sóc và vệ sinh máy thở sử dụng cho những bệnh nhân nằm viện hoặc bị nhiễm MDR-AB.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Munier AL, Biard L, Rousseau C, et al: Incidence, risk factors, and outcome of multidrug-resistant Acinetobacter baumannii acquisition during an outbreak in a burns unit. J Hosp Infect 97(3):226–233, 2017. doi: 10.1016/j.jhin.2017.07.020

Những điểm chính

  • A. baumannii (AB) chiếm khoảng 80% số trường hợpAcinetobacter nhiễm trùng và có xu hướng xảy ra ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, nằm viện.

  • Khu vực lây nhiễm phổ biến nhất là hệ hô hấp, nhưng các loài Acinetobacter cũng có thể gây nhiễm trùng có mủ ở bất kỳ hệ thống cơ quan nào.

  • AB đa kháng thuốc đã trở thành một vấn đề; sử dụng điều trị phối hợp thuốc kháng sinh được chọn dựa trên đánh giá độ nhạy cảm của khảng sinh có thể cần thiết.