Các bệnh nhiễm khuẩn do Acinetobacter

TheoLarry M. Bush, MD, FACP, Charles E. Schmidt College of Medicine, Florida Atlantic University;
Maria T. Vazquez-Pertejo, MD, FACP, Wellington Regional Medical Center
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 6 2024

Nhiễm Campylobacter thường gây ra tiêu chảy và đôi khi gây vãng khuẩn huyết, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, viêm tủy xương, hoặc viêm khớp nhiễm khuẩn. Chẩn đoán là qua nuôi cấy, thường là từ phân. Điều trị khi cần bao gồm azithromycin.

Campylobacter có thể di động, cong, hiếu khí, vi khuẩn gram âm, thường ở đường tiêu hóa của nhiều gia súc và gia cầm.

Một số loài gây bệnh cho con người. Các mầm bệnh chính là C. jejuni, C. coli, và C. fetus.

C. jejuni là mầm bệnh phổ biến từ thực phẩm, ảnh hưởng đến những người khỏe mạnh và những người bị suy giảm miễn dịch. Nó gây tiêu chảy ở tất cả các nhóm tuổi, mặc dù tỷ lệ mắc cao nhất là từ 1 đến 5 tuổi. Trong một số năm, C. jejuni gây ra nhiều trường hợp tiêu chảy ở Hoa Kỳ hơn cả vi khuẩn Salmonella hoặc Shigella cộng lại. C. jejuni có thể gây viêm màng não ở trẻ sơ sinh.

C. fetus và một số loài Campylobacter khác (ví dụ, C. coli, C. lari) thường gây nhiễm khuẩn huyết và các biểu hiện toàn thân ở người lớn, thường gặp hơn khi có các bệnh tiềm ẩn như tiểu đường, xơ gan, ung thư hoặc HIV/AIDS. C. fetus ít phổ biến hơn C. jejuni và thường là mầm bệnh cơ hội ảnh hưởng đến những người mắc bệnh tiềm ẩn, người cao tuổi và bệnh nhân mang thai. Ở bệnh nhân mang thai, tỷ lệ mất thai có thể lên tới 70%. C. fetus nhiễm trùng ở vật chủ khỏe mạnh xảy ra ở những người tiếp xúc nghề nghiệp với động vật bị nhiễm bệnh. Ở những bệnh nhân có thiếu hụt kháng thể, những vi khuẩn C. jejuni này có thể gây ra các chứng bệnh khó điều trị, tái phát. Giảm axit dịch vị và thiếu axit dịch vị là những yếu tố gây nguy cơ nhiễm khuẩn vì các loài Campylobacter nhạy cảm với axit dịch vị.

Điều kiện cần để mắc bệnh:

  • Tiếp xúc với động vật nhiễm bệnh (ví dụ như chó con)

  • Tiếp xúc với thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm (ví dụ, xử lý thực phẩm bị ô nhiễm)

  • Ăn phải thực phẩm bị ô nhiễm (đặc biệt là thịt gia cầm chưa nấu chín), nước hoặc sữa tươi chưa tiệt trùng

Sự lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc phân và miệng và quan hệ tình dục cũng có thể xảy ra nhưng không thường xuyên vì cần một lượng lớn Campylobacter để gây bệnh. Lây truyền Campylobacter nhiễm trùng không xảy ra ở nam giới có quan hệ tình dục với nam giới. Tuy nhiên, trong các trường hợp lẻ tẻ, nguồn lây khó xác định.

Các biến chứng

Bệnh tiêu chảy do C. jejuni có liên quan đến sự phát triển tiếp theo của hội chứng Guillain-Barré (GBS) do phản ứng chéo giữa kháng thể C. jejuni và ganglioside ở người (1). Mặc dù ước tính chỉ có 1 trường hợp GBS xảy ra trên 1.000 ca nhiễm C. jejuni ở Hoa Kỳ (2), nhưng khoảng 20% đến 50% số bệnh nhân bị GBS đã từng bị nhiễm C. jejuni trước đó (3, 4).

Viêm khớp sau nhiễm khuẩn (phản ứng) có thể xảy ra ở bệnh nhân HLA-B27 dương tính vài ngày đến vài tuần sau khi một đợt C. jejuni bệnh tiêu chảy. Các biến chứng sau nhiễm trùng khác bao gồm viêm màng bồ đào, thiếu máu tán huyết, hội chứng tan máu-tăng urê huyết, viêm cơ-màng ngoài tim, bệnh ruột non tăng sinh miễn dịch, sảy thai nhiễm trùng và bệnh não.

Nhiễm trùng khu trú ngoài ruột (ví dụ: viêm nội tâm mạc, viêm màng não, viêm khớp nhiễm trùng cấp tính) hiếm khi xảy ra với C. jejuni nhưng phổ biến hơn với C. fetus.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Nachamkin I, Allos BM, Ho T. Campylobacter species and Guillain-Barré syndrome. Clin Microbiol Rev. 1998;11(3):555-567. doi:10.1128/CMR.11.3.555

  2. 2. Centers for Disease Control and Prevention: Guillain-Barré Syndrome. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2024.

  3. 3. Rees JH, Soudain SE, Gregson NA, Hughes RA. Campylobacter jejuni infection and Guillain-Barré syndrome. N Engl J Med. 1995;333(21):1374-1379. doi:10.1056/NEJM199511233332102

  4. 4. Mishu B, Blaser MJ. Role of infection due to Campylobacter jejuni in the initiation of Guillain-Barré syndrome. Clin Infect Dis. 1993;17(1):104-108. doi:10.1093/clinids/17.1.104

Các triệu chứng và dấu hiệu của Campylobacter và các bệnh nhiễm trùng liên quan

Biểu hiện phổ biến nhất của Campylobacter nhiễm trùng là một bệnh tiêu hóa cấp tính, tự giới hạn, đặc trưng bởi tiêu chảy ra nước và đôi khi có máu.

Sốt (38 đến 40° C), xảy ra sau một đợt tái phát hoặc từng đợt, là đặc điểm thường xuyên duy nhất của nhiễm Campylobacter toàn thân, mặc dù đau bụng (thường ở 1/4 dưới bên phải, có thể giống viêm ruột thừa), đau đầu và đau cơ thường xuyên xảy ra.

Bệnh nhân cũng có thể bị viêm nội tâm mạc bán cấp do vi khuẩn (thường do C. fetus), viêm khớp phản ứng, viêm màng não, hoặc sốt không rõ nguyên nhân hơn là bệnh tiêu chảy. Sự liên quan đến viêm khớp do phản ứng thường là đơn độc, thường ở đầu gối; các triệu chứng tự hết trong khoảng từ 1 tuần đến vài tháng.

Chẩn đoán Campylobacter và các bệnh nhiễm trùng liên quan

  • Xét nghiệm nuôi cấy phân hoặc khuếch đại axit nucleic (NAAT)

  • Đôi khi nuôi cấy máu

Chẩn đoán phân biệt Campylobacter với viêm loét đại tràng, cần thiết đánh giá vi sinh học. Nên nuôi cấy phân và cấy máu đối với những bệnh nhân có dấu hiệu nhiễm trùng khu trú hoặc bệnh toàn thân nghiêm trọng. Bạch cầu xuất hiện khi nhuộm soi phân.

Cũng có xét nghiệm phân nhanh (nhiều bảng xét nghiệm NAAT của mầm bệnh đường ruột) và xét nghiệm phân xét nghiệm kháng nguyên.

Điều trị Campylobacter và các bệnh nhiễm trùng liên quan

  • Đôi khi dùng azithromycin

Hầu hết các bệnh nhiễm trùng đường ruột do C. jejuni gây ra đều tự khỏi; nếu không, azithromycin có thể hữu ích. Loại kháng sinh này cũng thường được dùng cho những bệnh nhân có nguy cơ cao mắc bệnh nặng hoặc phức tạp, chẳng hạn như những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch.

Do tình trạng kháng với ciprofloxacin ngày càng tăng nên chỉ nên sử dụng thuốc khi đã xác định được tính nhạy cảm, nhưng ngay cả khi đó tình trạng kháng đã được báo cáo vẫn xuất hiện khi điều trị bằng fluoroquinolone.

Đối với những bệnh nhân bị nhiễm Campylobacter ngoài đường ruột, nên dùng kháng sinh (ví dụ: imipenem, gentamicin, ampicillin, erythromycin) trong 2 tuần đến 4 tuần để ngăn ngừa tái phát.