Ung thư biểu mô tế bào gan

(U gan)

TheoDanielle Tholey, MD, Sidney Kimmel Medical College at Thomas Jefferson University
Xem xét bởiMinhhuyen Nguyen, MD, Fox Chase Cancer Center, Temple University
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 3 2025
v12496752_vi
Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) thường xảy ra ở bệnh nhân xơ gan và thường gặp ở những khu vực mà nhiễm vi rút viêm gan B và C là phổ biến. Triệu chứng và dấu hiệu thường không đặc hiệu. Chẩn đoán dựa trên nồng độ alpha-fetoprotein (AFP), chẩn đoán hình ảnh, và đôi khi là sinh thiết gan. Đôi khi, việc sàng lọc bằng cách đo AFP định kỳ và siêu âm được khuyến nghị cho những bệnh nhân có nguy cơ cao. Tiên lượng kém khi ung thư tiến triển hoặc chức năng tổng hợp gan kém, nhưng đối với những khối u nhỏ giới hạn ở gan, liệu pháp tiêu hủy, phẫu thuật cắt bỏ hoặc ghép gan có thể chữa khỏi bệnh.

Nguồn chủ đề

Ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư gan nguyên phát phổ biến nhất, bao gồm khoảng ba phần tư số ca bệnh ở Hoa Kỳ, nơi mà tỷ lệ mắc mới đã tăng lên trong vài thập kỷ qua nhưng có thể đã ổn định. Ung thư biểu mô tế bào gan phổ biến hơn ở bên ngoài Hoa Kỳ, đặc biệt là ở Đông Á và Châu Phi cận Sahara, nơi tỷ lệ mắc bệnh thường tương đương với tỷ lệ hiện mắc về mặt địa lý của nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính (HBV). Bệnh phổ biến gấp đôi ở nam giới so với nữ giới (1, 2).

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Singal AG, Llovet JM, Yarchoan M, et al. AASLD Practice Guidance on prevention, diagnosis, and treatment of hepatocellular carcinoma [published correction appears in Hepatology. Ngày 1 tháng 12 năm 2023;78(6):E105. doi: 10.1097/HEP.0000000000000621]. Hepatology. 2023;78(6):1922-1965. doi:10.1097/HEP.0000000000000466. Xuất bản điện tử ngày 22 tháng 5 năm 2023. Erratum: AASLD Practice Guidance on prevention, diagnosis, and treatment of hepatocellular carcinoma. Hepatology. 2023;78(6):E105. doi:10.1097/HEP.0000000000000621

  2. 2. Choi J, Kim GA, Han S, Lee W, Chun S, Lim YS. Longitudinal Assessment of Three Serum Biomarkers to Detect Very Early-Stage Hepatocellular Carcinoma. Hepatology. 2019;69: 1983–94.

Căn nguyên của ung thư biểu mô tế bào gan

Ung thư biểu mô tế bào gan thường là một biến chứng của xơ gan.

Sự hiện diện của HBV làm tăng nguy cơ mắc HCC > 100 lần ở những người mang HBV. Sự kết hợp HBV-DNA vào bộ gen của vật chủ có thể khởi phát sự biển đổi ác tính, ngay cả khi bệnh nhân không bị viêm gan mạn hoặc xơ gan.

Các rối loạn khác gây ung thư biểu mô tế bào gan bao gồm xơ gan do nhiễm vi-rút viêm gan C mạn tính (HCV), bệnh thừa sắt, và xơ gan do rượu. Tương tự như nhiễm HBV, HCC có thể phát triển ở bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu không xơ gan. Bệnh nhân bị xơ gan do các nguyên nhân khác cũng có nguy cơ mắc bệnh tăng lên.

Chất gây ung thư ở môi trường có thể đóng một vai trò nào đó; ví dụ: ăn phải thực phẩm bị nhiễm nấm aflatoxin được cho là góp phần vào tỷ lệ mắc HCC cao ở các vùng cận nhiệt đới.

Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư biểu mô tế bào gan

Phổ biến nhất là bệnh nhân không có triệu chứng và khối u được chẩn đoán khi sàng lọc thường quy. Bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn tiến triển có thể biểu hiện đau bụng, sụt cân, có khối u ở góc phần tư trên bên phải và suy gan không rõ nguyên nhân. Sốt có thể xuất hiện. Ở một số bệnh nhân, biểu hiện đầu tiên của HCC là cổ trướng ra máu, sốc hoặc viêm phúc mạc do xuất huyết khối u. Đôi khi, tiếng gan cọ mạng sườn hoặc tiếng thổi động mạch có thể xuất hiện.

Thỉnh thoảng, xuất hiện các biến chứng của chuyển hóa hệ thống, bao gồm hạ đường huyết, tăng hồng cầu, tăng calci huyết và tăng lipid máu. Những biến chứng này có thể có biểu hiện lâm sàng.

Chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan

  • Làm xét nghiệm alpha-fetoprotein (AFP)

  • Chẩn đoán hình ảnh (chụp CT, siêu âm hoặc chụp MRI)

Các bác sĩ lâm sàng nghi ngờ ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) nếu

  • Người có bệnh gan mạn xuất hiện tình trạng mất bù không rõ nguyên nhân.

  • Kiểm tra chẩn đoán hình ảnh tình cờ phát hiện một khối u gan, đặc biệt là nếu bệnh nhân bị xơ gan.

Tuy nhiên, các chương trình sàng lọc cho phép các bác sĩ lâm sàng phát hiện nhiều HCC trước khi có các triệu chứng.

Chẩn đoán dựa vào làm xét nghiệm AFP và một xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh. Ở người lớn, AFP biểu thị quá trình biệt hóa tế bào gan, thường biểu thị HCC; 40% đến 65% số bệnh nhân ung thư có nồng độ AFP cao (> 400 ng/mL [400 mcg/L]). Nông độ cao do các nguyên nhân khác thường hiếm gặp trừ trường hợp u quái ung thư hóa của tinh hoàn, đây là một loại khối u hiếm gặp. Nồng độ thấp hơn đặc hiệu kém và có thể xuất hiện trong tái tạo tế bào gan (ví dụ, viêm gan). Các xét nghiệm máu khác, chẳng hạn như AFP-L3 (một dạng AFP) và des-gamma–carboxyprothrombin (DCP), là những chất chỉ điểm sinh học để phân tầng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan. AFP-L3 và DCP không đủ nhạy (40% đến 62%) để phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn đầu khi sử dụng riêng lẻ; tuy nhiên, các chất chỉ điểm sinh học này mang lại giá trị chẩn đoán bổ sung cho AFP và chẩn đoán hình ảnh và có thể giúp làm rõ nguyên nhân của các tổn thương không xác định do tính đặc hiệu của các chất chỉ điểm đó (81% đến 90%) đối với ung thư biểu mô tế bào gan (1).

Tùy thuộc vào sở thích và khả năng của địa phương, kiểm tra chẩn đoán hình ảnh đầu tiên có thể là chụp CT có tăng cường chất cản quang, siêu âm hoặc chụp MRI. Chẩn đoán hình ảnh có chất cản quang phải được thực hiện theo phác đồ ba pha vì pha thứ ba hay pha cản quang chậm là rất cần thiết để chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan bằng hình ảnh X-quang.

Tiêu chuẩn chụp X quang được gọi là LI-RADS (hệ thống dữ liệu và báo cáo hình ảnh gan) được sử dụng để chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan có độ nhạy cao với các đặc điểm chụp X quang chính, bao gồm sự hiện diện của tăng cường động mạch, giả nang xung quanh tổn thương, rửa trôi thuốc cản quang trên hình ảnh pha trễ và sự phát triển khoảng cách của tổn thương so với lần chụp trước (2).

Nếu chẩn đoán hình ảnh cho thấy các hình ảnh đặc trưng và AFP tăng cao thì chấn đoán đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hiếm gặp, sinh thiết gan, thường được dẫn hướng bằng siêu âm hoặc chụp CT, được chỉ định để chẩn đoán xác định trong những trường hợp không rõ ràng.

Phân giai đoạn

Nếu chẩn đoán mắc ung thư biểu mô tế bào gan, đánh giá giai đoạn thường bao gồm chụp CT ngực không thuốc cản quang và chụp tĩnh mạch cửa (nếu chưa thực hiện) bằng chụp MRI hoặc chụp CT có thuốc cản quang để loại trừ huyết khối. Trong trường hợp nồng độ phosphatase kiềm hoặc AFP tăng cao đáng kể hoặc khối u nằm ngoài tiêu chuẩn Milan, thường phải chụp xương để loại trừ di căn xương.

Có thể sử dụng nhiều hệ thống khác nhau để phân giai đoạn HCC; không có hệ thống nào được sử dụng phổ biến. Hệ thống phân loại ung thư cổ điển TNM (u/hạch/di căn) là một trong những hệ thống phân loại ung thư biểu mô tế bào gan như vậy và sử dụng các tiêu chí bao gồm số lượng và kích thước khối u, cũng như mức độ lan rộng theo đường bạch huyết và ngoài gan. Các hệ thống tính điểm khác, bao gồm hệ thống phân loại ung thư gan Okuda và Barcelona–Clinic, được sử dụng phổ biến hơn vì các hệ thống này bao gồm thông tin không chỉ về kích thước, số lượng và mức độ lan rộng ngoài gan của khối u mà còn về mức độ nặng của bệnh gan. Vì mức độ nặng của bệnh gan ảnh hưởng đến cả kết quả ung thư biểu mô tế bào gan và tính khả thi của các phương thức điều trị, tiêu chuẩn Okuda và Barcelona thường được sử dụng hơn vì khả năng hướng dẫn xử trí của các tiêu chuẩn đó (3, 4).

Sàng lọc

Số lượng bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan đang tăng lên thông qua các chương trình sàng lọc. Sàng lọc bệnh nhân bị xơ gan được khuyến nghị theo hướng dẫn của nhiều tổ chức xã hội, bao gồm Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh gan Hoa Kỳ (AASLD) (5). Một phương pháp sàng lọc phổ biến là AFP cộng với siêu âm 6 tháng một lần. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân béo phì, do độ nhạy của siêu âm bị hạn chế nên cần cân nhắc xen kẽ siêu âm với chụp MRI hoặc chụp CT để sàng lọc. Nhiều chuyên gia khuyên nên sàng lọc bệnh nhân nhiễm viêm gan B kéo dài ngay cả khi không có xơ gan. Bệnh nhân bị viêm gan nhiễm mỡ liên quan đến chuyển hóa (MASH) hiện được xác định là chiếm 50% số ca ung thư biểu mô tế bào gan không do xơ gan (6). Tuy nhiên, bất chấp sự công nhận này, hiện nay vẫn chưa có biện pháp sàng lọc chính thức nào được khuyến nghị cho những bệnh nhân này. Việc sàng lọc có liên quan đến lợi ích về thời gian sống thêm ở những bệnh nhân bị xơ gan có nguy cơ thấp và nguy cơ trung bình (Child-Turcotte-Pugh A và B). Trong thực hành lâm sàng, cũng cần xem xét sàng lọc bệnh nhân bị gan nhiễm mỡ và xơ gan giai đoạn tiến triển (5).

Tài liệu tham khảo chẩn đoán

  1. 1. Choi J, Kim GA, Han S, Lee W, Chun S, Lim YS. Longitudinal Assessment of Three Serum Biomarkers to Detect Very Early-Stage Hepatocellular Carcinoma. Hepatology. 2019;69: 1983–94.

  2. 2. Mitchell DG, Bruix J, Sherman M, et al: LI-RADS (liver imaging reporting and data system): Summary, discussion, and consensus of the LI-RADS Management Working Group and future directions. Hepatology. 61(3):1056-1065. 2015. doi: 10.1002/hep.27304

  3. 3. Brown ZJ, Tsilimigras DI, Ruff SM, et al. Management of Hepatocellular Carcinoma: A Review. JAMA Surg. 2023;158(4):410-420. doi:10.1001/jamasurg.2022.7989

  4. 4. Maida M, Orlando E, Cammà C, Cabibbo G. Staging systems of hepatocellular carcinoma: a review of literature. World J Gastroenterol. 2014;20(15):4141-4150. doi:10.3748/wjg.v20.i15.4141

  5. 5. Singal AG, Llovet JM, Yarchoan M, et al. AASLD Practice Guidance on prevention, diagnosis, and treatment of hepatocellular carcinoma [published correction appears in Hepatology. Ngày 1 tháng 12 năm 2023;78(6):E105. doi: 10.1097/HEP.0000000000000621]. Hepatology. 2023;78(6):1922-1965. doi:10.1097/HEP.0000000000000466. Xuất bản điện tử ngày 22 tháng 5 năm 2023. Erratum: AASLD Practice Guidance on prevention, diagnosis, and treatment of hepatocellular carcinoma. Hepatology. 2023;78(6):E105. doi:10.1097/HEP.0000000000000621

  6. 6. European Association for the Study of the Liver. EASL Clinical Practice Guidelines: Management of hepatocellular carcinoma [published correction appears in J Hepatol. Tháng 4 năm 2019;70(4):817. doi: 10.1016/j.jhep.2019.01.020]. J Hepatol. 2018;69(1):182-236. doi:10.1016/j.jhep.2018.03.019

Xử trí ung thư biểu mô tế bào gan.

  • Cấy ghép nếu khối u nằm trong tiêu chuẩn Milan (1 khối u < 5 cm hoặc 3 khối u < 3 cm không xâm lấn mạch máu và alpha-fetoprotein < 500 mcg/L).

  • Phẫu thuật cắt bỏ ở những bệnh nhân được chọn.

  • Đôi khi, liệu pháp triệt đốt hướng đến gan và hóa trị/liệu pháp miễn dịch theo đường toàn thân

Điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) phụ thuộc vào giai đoạn của ung thư (1) và mức độ bệnh gan đi kèm.

Tiêu chuẩn Milan (một khối u duy nhất < 5 cm hoặc 3 khối u đều 3 cm và giới hạn ở gan, không xâm lấn mạch máu nhỏ và nếu AFP < 500 mcg/L) được sử dụng để xác định bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan là những người đủ điều kiện để ghép gan (2). Ghép gan để điều trị ung thư biểu mô tế bào gan có thể chữa khỏi bệnh và dường như mang đến tiên lượng tốt như ghép gan để điều trị các bệnh không phải ung thư. Hướng dẫn năm 2023 của Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh gan Hoa Kỳ (AASLD) sử dụng tiêu chuẩn Milan để lựa chọn bệnh nhân ghép gan (3).

Ở những bệnh nhân được chọn có một khối u duy nhất, không xâm lấn mạch máu và không tăng áp lực tĩnh mạch cửa, phẫu thuật cắt bỏ có khả năng chữa khỏi bệnh, với tỷ lệ sống thêm 5 năm > 60% (4, 5).

Nếu khối u lớn (> 5 cm), đa ổ, xâm lấn tĩnh mạch cửa hoặc di căn (tức là giai đoạn III trở lên), cấy ghép không phải là một phương án tức thì. Tuy nhiên, khi phối hợp liệu pháp điều trị hướng đến gan (ví dụ: nút hóa chất động mạch qua gan [TACE] và hóa trị theo đường toàn thân), một phân nhóm bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận có thể được hạ giai đoạn thành tiêu chuẩn Milan và sau đó có thể đủ điều kiện để xem xét lại để ghép gan. Xử trí HCC giai đoạn tiến triển tốt nhất nếu có thảo luận của hội đồng khối u đa ngành.

Các phương pháp điều trị triệt đốt (ví dụ: nút hóa chất động mạch qua gan [TACE], nút mạch vi cầu yttrium-90 [xạ ​​trị nội chọn lọc, hay SIRT], nút mạch qua động mạch bằng hạt giải phóng thuốc, triệt đốt bằng sóng cao tần) có tác dụng làm giảm nhẹ và làm chậm mức độ phát triển của khối u; các phương pháp này được sử dụng khi bệnh nhân đang chờ ghép gan. Đối với các khối u nhỏ < 2 cm, cắt bỏ bằng sóng cao tần (RFA) có khả năng chữa khỏi.

Các liệu pháp theo đường toàn thân, bao gồm liệu pháp miễn dịch, cải thiện kết quả điều trị của ung thư biểu mô tế bào gan. Đối với ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn tiến triển, liệu pháp theo đường toàn thân truyền thống là sorafenib, chỉ cải thiện kết quả điều trị một cách khiêm tốn (6). Một số thuốc hóa trị mới hơn có khả năng kéo dài thời gian sống thêm hơn hoặc gây ra ít tác dụng bất lợi hơn sorafenib; bao gồm lenvatinib, regorafenib và liệu pháp miễn dịch như atezolizumab kết hợp với bevacizumab hoặc tremelimumab kết hợp với durvalumab. Do đó, các thuốc này hiện được ưu tiên lựa chọn làm liệu pháp điều trị bước đầu thay cho sorafenib.

Thời gian sống thêm không bệnh tiến triển khi dùng lenvatinib cao hơn so với khi dùng sorafenib và là điều trị bước đầu thay thế.

Atezolizumab và bevacizumab có sẵn dưới dạng liệu pháp phối hợp cho những bệnh nhân mắc HCC giai đoạn tiến triển chưa được điều trị trước đó theo đường toàn thân. Atezolizumab là thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch kháng thể đơn dòng được nhân bản hóa (PD-L1), trong khi bevacizumab là kháng thể đơn dòng nhắm đích yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF). Ngày càng có nhiều bằng chứng ủng hộ các loại thuốc này làm liệu pháp điều trị bước đầu cho điều trị theo đường toàn thân trong ung thư biểu mô tế bào gan (7, 8), với tỷ lệ sống thêm tổng thể tốt hơn và tỷ lệ biến cố bất lợi tương tự với bevacizumab/atezolizumab so với sorafenib, lenvatinib hoặc nivolumab (8). Hướng dẫn của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ năm 2020 và Hướng dẫn ung thư biểu mô tế bào gan của Hiệp hội Hoa Kỳ và Nghiên cứu Bệnh Gan năm 2023 khuyến nghị sử dụng atezolizumab và bevacizumab hoặc tremelimumab kết hợp với durvalumab làm liệu pháp điều trị bước đầu cho những bệnh nhân mắc bệnh gan Child-Pugh nhóm A và tình trạng theo Nhóm Hợp tác Ung thư Miền Đông (ECOG) là 0–1 (9, 10).

Do tăng nguy cơ chảy máu khi điều trị bằng atezolizumab và bevacizumab, bệnh nhân cần phải thắt giãn tĩnh mạch trước khi bắt đầu điều trị.  Liệu pháp miễn dịch không được khuyến nghị trên những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tái phát sau cấy ghép vì khả năng kích thích hệ miễn dịch của vật chủ có thể dẫn đến tỷ lệ đào thải cao hơn (11). Một phác đồ điều trị mới phối hợp tremelimumab, một protein kháng tế bào lympho T 4 (hoặc "CTLA-4") với durvalumab (một loại thuốc kháng PD-L1). Trong thử nghiệm Himalaya, tremelimumab kết hợp với durvalumab đã cải thiện thời gian sống thêm nhiều hơn so với liệu pháp đơn trị liệu bước đầu bằng sorafenib trước đây (12). Dạng phối hợp này dành cho những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không thể cắt bỏ và thường được sử dụng làm một phương pháp thay thế cho những bệnh nhân bị xơ gan Child-Pugh loại A và thể trạng chung tốt nhưng không thể dùng bevacizumab.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Bruix J, Reig M, Sherman M. Evidence-based diagnosis, staging, and treatment of patients with hepatocellular carcinoma. Gastroenterology. 50(4):835-853, 2016. doi: 10.1053/j.gastro.2015.12.041

  2. 2. Mazzaferro V, Regalia E, Dorci R, et al. Liver transplantation for the treatment of small hepatocellular carcinomas in patients with cirrhosis. N Engl J Med. 334(11):693-700, 1996. doi: 10.1056/NEJM199603143341104

  3. 3. Frenette C, Mendiratta-Lala M, Salgia R, Wong RJ, Sauer BG, Pillai A . ACG Clinical Guideline: Focal Liver Lesions. Am J Gastroenterol. 2024;119(7):1235-1271. doi:10.14309/ajg.0000000000002857. doi:10.14309/ajg.0000000000002857 ACG Clinical Guideline: Focal Liver Lesions. Am J Gastroenterol. 2024;119(7):1235-1271. doi:10.14309/ajg.0000000000002857

  4. 4. Benson AB, D'Angelica MI, Abbott DE, et al. Hepatobiliary Cancers, Version 2.2021, NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology. J Natl Compr Canc Netw. 2021;19(5):541-565. Xuất bản ngày 1 tháng 5 năm 2021. doi:10.6004/jnccn.2021.0022

  5. 5. Villanueva A. Hepatocellular Carcinoma. N Engl J Med. 2019;380(15):1450-1462. doi:10.1056/NEJMra1713263

  6. 6. Llovet JM, Ricci S, Mazzaferro V, et al. Sorafenib in advanced hepatocellular carcinoma. N Engl J Med. 359:378–390, 2018. doi: 10.1056/NEJMoa0708857

  7. 7. Finn RS, Qin S, Ikeda M, et al. Atezolizumab plus Bevacizumab in Unresectable Hepatocellular Carcinoma. N Engl J Med. 2020;382(20):1894-1905. doi:10.1056/NEJMoa1915745

  8. 8. Sonbol MB, Riaz IB, Naqvi SAA, et al. Systemic therapy and sequencing options in advanced hepatocellular carcinoma: A systematic review and network meta-analysis. JAMA Oncol. 6(12):e204930. doi: 10.1001/jamaoncol.2020.4930

  9. 9. Gordan JD, Kennedy EB, Abou-Alfa GK, et al. Systemic therapy for advanced hepatocellular carcinoma: ASCO guideline. J Clin Oncol. 38(36):4317-4345, 2020. doi: 10.1200/JCO.20.02672

  10. 10. Singal AG, Llovet JM, Yarchoan M, et al. AASLD Practice Guidance on prevention, diagnosis, and treatment of hepatocellular carcinoma [published correction appears in Hepatology. Ngày 1 tháng 12 năm 2023;78(6):E105. doi: 10.1097/HEP.0000000000000621.]. Hepatology. 2023;78(6):1922-1965. doi:10.1097/HEP.0000000000000466

  11. 11. Kumar V, Shinagare AB, Rennke HG, et al. The safety and efficacy of checkpoint inhibitors in transplant recipients: A case series and systematic review of literature. Oncologist. 25(6):505-514, 2020. doi: 10.1634/theoncologist.2019-0659

  12. 12. Abou-Alfa GK, Lau G, Kudo M, et al. Tremelimumab plus Durvalumab in Unresectable Hepatocellular Carcinoma. NEJM Evid. 2022;1(8):EVIDoa2100070. doi:10.1056/EVIDoa2100070.

Phòng ngừa ung thư biểu mô tế bào gan

Sử dụng vắc-xin HBV làm giảm tỷ lệ ung thư, đặc biệt là ở các khu vực bệnh lưu hành. Ngăn ngừa sự phát triển của xơ gan do bất kỳ nguyên nhân nào (ví dụ: thông qua điều trị viêm gan C mạn tính, phát hiện sớm bệnh nhiễm sắc tố sắt mô, phòng ngừa và kiểm soát hội chứng chuyển hóa hoặc kiểm soát rối loạn sử dụng rượu) cũng có thể có tác dụng đáng kể.

Những điểm chính

  • Ung thư biểu mô tế bào gan thường là một biến chứng của xơ gan và phổ biến nhất ở những khu vực trên thế giới nơi có bệnh viêm gan B phổ biến.

  • Cân nhắc chẩn đoán nếu khám thực thể hoặc xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh phát hiện gan to hoặc bệnh gan mạn tính chuyển biến xấu ngoài dự kiến.

  • Chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan dựa trên nồng độ AFP và kết quả chụp gan, và phân loại ung thư bằng chụp CT ngực không thuốc cản quang, chụp tĩnh mạch cửa và đôi khi là chụp xương.

  • Xem xét ghép gan nếu khối u nhỏ và số lượng ít theo tiêu chuẩn Milan.

  • Dự phòng bao gồm sử dụng vắc-xin viêm gan B và quản lý các rối loạn có thể dẫn đến xơ gan.