Trứng cá

(Trứng cá)

TheoJonette E. Keri, MD, PhD, University of Miami, Miller School of Medicine
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 3 2024

Trứng cá thông thường là sự hình thành của các nhân mụn, sẩn, mụn mủ, cục hoặc nang do tắc nghẽn và viêm của các đơn vị nang lông tuyến bã (nang lông và kèm theo tuyến bã). Mụn trứng cá thường bị ở trên mặt và thân trên. Nó thường ảnh hưởng nhiều nhất đến thanh thiếu niên. Chẩn đoán bằng khám lâm sàng. Việc điều trị dựa trên mức độ nghiêm trọng có thể dùng thuốc tại chỗ và toàn thân nhằm giảm sản sinh bã, giảm hình thành nhân mụn, giảm viêm, giảm lượng vi khuẩn và bình thường quá trình sừng hóa.

Mụn trứng cá là bệnh về da phổ biến nhất ở Hoa Kỳ và ảnh hưởng đến ít nhất 70% dân số tại một thời điểm nào đó trong đời (1).

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Collier CN, Harper JC, Cafardi JA, et al: The prevalence of acne in adults 20 years and older. J Am Acad Dermatol 58(1):56-59, 2008. doi: 10.1016/j.jaad.2007.06.045

Sinh lý bệnh của mụn trứng cá thông thường

Mụn xuất hiện thông qua sự tương tác của 4 yếu tố chính:

  • Sản xuất quá nhiều chất bã nhờn

  • Bít tắc nang lông bởi chất bã và tế bào sừng

  • Tình trạng cư trú ở nang lông của Cutibacterium acnes (trước đây là Propionibacterium acnes), một vi khuẩn kỵ khí bình thường của con người

  • Giải phóng các chất trung gian gây viêm

Trứng cá có thể được phân loại là

  • Không viêm: Đặc trưng bởi nhân mụn

  • Viêm: Đặc trưng bởi sẹo, mụn mủ, nốt sần, và nang

Trứng cá không viêm

Nhân mụn là những sự tắc nghẽn chất bã ở trong nang lông. Chúng được gọi là mở hoặc đóng tùy thuộc vào việc nang lông được mở rộng hay đóng trên bề mặt da. Nút sừng được dễ dàng đẩy ra từ nhân mụn mở nhưng rất khó để loại bỏ khỏi nhân mụn đóng. Các nhân mụn đóng là những tổn thương tiền thân cho mụn trứng cá viêm.

Trứng cá viêm

Sẩn và mụn mủ xảy ra khi C. acnes tạo thành các nhân mụn đóng, phá vỡ bã nhờn thành các axit béo tự do gây kích thích biểu mô nang lông và gây ra đáp ứng viêm bởi các bạch cầu trung tính và lympho bào, làm phá vỡ biểu mô. Các nang viêm vỡ vào lớp hạ bì (đôi khi kết tủa bởi thao tác vật lý hoặc chà sát mạnh) gây ra một phản ứng viêm tại chỗ mạnh hơn, tạo ra các sẩn. Nếu viêm nặng, mụn mủ có thể xuất hiện.

Cục và nang là những biểu hiện khác của mụn trứng cá viêm. Các nốt là những tổn thương sâu hơn có thể liên quan đến > 1 nang liền kề và các nang là những nốt lớn di động.

Căn nguyên của mụn trứng cá thông thường

Các yếu tố khởi phát thường gặp là

  • Tuổi dậy thì

Trong giai đoạn dậy thì, sự tăng trưởng của androgen kích thích sự sản xuất bã và sự phát triển quá mức của tế bào sừng.

Các yếu tố khởi phát khác bao gồm

  • Thay đổi nội tiết xảy ra khi có thai hoặc chu kỳ kinh nguyệt

  • Mỹ phẩm gây bít tắc, chất tẩy rửa, kem dưỡng da, và quần áo

  • Độ ẩm cao và đổ mồ hôi

Mối liên quan giữa tình trạng mụn trứng cá trầm trọng hơn với việc rửa mặt không đúng cách, thủ dâm, ăn sô cô la và hoạt động tình dục là không có cơ sở. Một số nghiên cứu cho thấy có thể có mối liên hệ với các sản phẩm sữa (1) và chế độ ăn có lượng đường huyết cao (2). Ánh sáng mặt trời có tác dụng chống viêm làm trứng cá có thể giảm đi vào những tháng hè. Mối liên quan được đề xuất giữa mụn trứng cá và chứng tăng insulin (3, 4) cần được nghiên cứu thêm. Một số loại thuốc (ví dụ: corticosteroid, lithium, phenytoin, isoniazid) làm mụn nặng hơn hoặc gây phát ban dạng mụn trứng cá.

Tài liệu tham khảo về căn nguyên

  1. 1. Adebamowo CA, Spiegelman D, Berkey CS, et al: Milk consumption and acne in teenaged boys. J Am Acad Dermatol 58(5):787-793, 2008. doi: 10.1016/j.jaad.2007.08.049

  2. 2. Smith RN, Mann NJ, Braue A, et al: The effect of a high-protein, low glycemic-load diet versus a conventional, high glycemic-load diet on biochemical parameters associated with acne vulgaris: A randomized, investigator-masked, controlled trial. J Am Acad Dermatol 57(2):247-256, 2007 doi: 10.1016/j.jaad.2007.01.046

  3. 3. Vora S, Ovhal A, Jerajani H, et al: Correlation of facial sebum to serum insulin-like growth factor-1 in patients with acne. Br J Dermatol 159(4):990-991, 2008 doi: 10.1111/j.1365-2133.2008.08764.x

  4. 4. Nagpal M, De D, Handa S, et al: Insulin resistance and metabolic syndrome in young men with acne. JAMA Dermatol 152(4):399-404, 2016. doi: 10.1001/jamadermatol.2015.4499

Các triệu chứng và dấu hiệu của mụn trứng cá thông thường

Các tổn thương da và sẹo gây ra có thể là nguyên nhân gây ra những căng thẳng tinh thần đáng kể. Cục và nang có thể gây đau. Các thương tổn thường cùng tồn tại ở các giai đoạn khác nhau.

Nhân mụn biểu hiện là mụn đầu trắng và mụn đầu đen. Mụn đầu trắng (nhân mụn kín) là các tổn thương có màu da hoặc màu trắng có đường kính từ 1 đến 3 mm; mụn đầu đen (nhân mụn mở) có hình dạng tương tự nhưng với một trung tâm thẫm màu.

Biểu hiện của mụn trứng cá
Trứng cá có nhân mụn lớn
Trứng cá có nhân mụn lớn

© Springer Science+Business Media

Trứng cá có nhân mụn ở tai
Trứng cá có nhân mụn ở tai

© Springer Science+Business Media

Tổn thương da (mụn mủ)
Tổn thương da (mụn mủ)

Mụn mủ là các tổn thương nổi cao, thường là có chỏm màu vàng, có chứa mủ. Trên mặt của người bị mụn trứng cá này xuất hiện những mụn mủ rải rác.

... đọc thêm

Hình ảnh do bác sĩ Thomas Habif cung cấp

Mụn trứng cá (sẩn và mụn mủ)
Mụn trứng cá (sẩn và mụn mủ)

Mụn trứng cá thường biểu hiện dưới dạng nhân mụn (mụn đầu trắng hoặc mụn đầu đen) và cũng có thể là dạng sẩn (mũi tên màu xanh lam) và mụn mủ (mũi tên màu đen).

... đọc thêm

Hình ảnh do bác sĩ Thomas Habif cung cấp

Mụn trứng cá có nhiều mụn mủ
Mụn trứng cá có nhiều mụn mủ

Cũng nhìn thấy sẩn và vảy.

© Springer Science+Business Media

Mụn trứng cá ảnh hưởng đến cơ thể
Mụn trứng cá ảnh hưởng đến cơ thể

Có sẩn và nhân mụn.

© Springer Science+Business Media

Mụn viêm với tăng sắc tố
Mụn viêm với tăng sắc tố

Trên mặt xuất hiện các mụn mủ và sẩn đỏ cùng với tình trạng tăng sắc tố sau viêm và sẹo.

© Springer Science+Business Media

Sẩn và mụn mủ là những tổn thương ban đỏ có đường kính từ 2 đến 5 mm. Sẩn tương đối sâu. Mụn mủ thường nông hơn

Cục thì lớn hơn, sâu hơn, và rắn chắc hơn sẩn Những tổn thương như vậy có thể do viêm nang thượng bì, mặc dù chúng không có cấu trúc nang thật sự.

nang là những thương tổn sưng to hơn cục Hiếm khi, nang hình thành áp xe sâu. Các nang trứng cá kéo dài có thể gây ra sẹo có biểu hiện như các hốc nhỏ và sâu (sẹo đáy nhọn), hố lớn hơn, sẹo lõm, hoặc sẹo phì đại hoặc sẹo lồi.

Tăng sắc tố có thể xảy ra sau khi hết các tổn thương mụn trứng cá viêm.

Mụn trứng cá với sự hình thành áp xe
Dấu các chi tiết
© Springer Science+Business Media
Trứng cá dạng nang
Dấu các chi tiết
Ảnh này cho thấy các nốt mủ phù hợp với mụn nang.
Hình ảnh do bác sĩ Karen McKoy cung cấp

Trứng cá bọc là dạng nặng nhất của mụn trứng cá, ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơn phụ nữ. Bệnh nhân có áp xe, các xoang rò mủ, nhân mụn có lỗ rò, sẹo lồi và sẹo phì đại. Phía lưng và ngực thường bị tổn thương nặng. Cánh tay, bụng, mông, và thậm chí da đầu có thể bị ảnh hưởng.

Trứng cá bọc (mụn trứng bọc) trên mặt
Dấu các chi tiết
Bức ảnh này cho thấy trứng cá bọc, dạng mụn trứng cá nặng nhất của mụn trứng cá thông thường, trên mặt. Áp xe và sẹo lồi có thể nhìn thấy.
© Springer Science+Business Media

Trứng cá tối cấp là thương tổn cấp tính, sốt, mụn trứng cá loét, đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của thương tổn áp xe rồi đến hoại tử xuất huyết. Tăng bạch cầu và sưng đau khớp cũng có thể gặp.

Trứng cá tối cấp
Dấu các chi tiết
Ảnh này cho thấy các vết loét hợp lưu và không hợp lưu do mụn trứng cá tối cấp.
© Springer Science+Business Media

Viêm da mủ vùng mặt (còn được gọi là trứng cá đỏ tối cấp) xuất hiện đột ngột trên mặt của phụ nữ trẻ. Nó có thể tương tự như trứng cá tối cấp. Phản ứng bao gồm các mảng hồng ban và mụn mủ ở cằm, má và trán. Sẩn và cục có thể phát triển và hợp lại.

Bệnh mủ da mặt (trứng cá đỏ tối cấp)
Dấu các chi tiết
Ảnh này cho thấy bệnh mủ da mặt với các mảng ban đỏ, sẩn, mụn mủ và các nốt hợp lưu.
© Springer Science+Business Media
Bệnh mủ da mặt (liên quan đến mang thai)
Dấu các chi tiết
Ảnh này cho thấy da mặt có mủ với các mảng hồng ban, sẩn và mụn mủ xảy ra trong thai kỳ.
Hình ảnh do bác sĩ Karen McKoy cung cấp

Chẩn đoán mụn trứng cá thông thường

  • Đánh giá cho các yếu tố ảnh hưởng đến bệnh (ví dụ, hormone, hóa chất, hoặc liên quan đến thuốc)

  • Xác định mức độ bệnh (nhẹ, trung bình, nặng)

  • Đánh giá tác động tâm lý xã hội

Chẩn đoán trứng cá qua thăm khám.

Chẩn đoán phân biệt bao gồm bệnh trứng cá đỏ (không thấy nhân mụn), mụn trứng cá do corticosteroid (không có nhân mụn và trong đó mụn mủ thường ở cùng giai đoạn phát triển), viêm da quanh miệng (thường phân bố quanh miệng và quanh ổ mắt nhiều hơn) và dạng mụn trứng cá phát ban do thuốc (xem bảng Các loại phản ứng thuốc và tác nhân gây bệnh điển hình). Mức độ nghiêm trọng của mụn trứng cá được xếp loại nhẹ, trung bình hoặc nặng dựa trên số lượng và loại tổn thương; một ví dụ của tiêu chuẩn chẩn đoán xác định trong bảng Phân loại mức độ nghiêm trọng của mụn.

Bảng
Bảng

Điều trị mụn trứng cá thông thường

  • Nhân mụn: Tretinoin tại chỗ

  • Trứng cá viêm nhẹ: Retinoid tại chỗ đơn độc hoặc phối hợp với kháng sinh tại chỗ, benzoyl peroxide, hoặc cả hai

  • Trứng cá ở mức độ trung bình: Kháng sinh uống với bôi tại chỗ như đối với mụn trứng cá nhẹ

  • Trứng cá nặng: Isotretinoin uống

  • Trứng cá dạng nang: Tiêm Triamcinolone nội tổn thương

Điều quan trọng là phải điều trị mụn trứng cá để giảm mức độ bệnh, sẹo và căng thẳng tâm lý.

Điều trị mụn trứng cá bao gồm nhiều loại thuốc bôi tại chỗ và toàn thân nhằm mục đích giảm sản xuất bã nhờn, hình thành mụn trứng cá, viêm, số lượng vi khuẩn và bình thường hóa quá trình sừng hóa (xem hình Các loại thuốc khác nhau có tác dụng như thế nào trong điều trị mụn trứng cá). Việc lựa chọn phương pháp điều trị thường dựa trên mức độ nặng; các lựa chọn được tóm tắt trong bảng Các loại thuốc dùng để điều trị mụn trứng cá. (Xem thêm 2024 guidelines of care for the management of acne vulgaris from the American Academy of Dermatology.)

Các vùng bị thương tổn phải được làm sạch 1 hoặc 2 lần/ngày, nhưng việc rửa nhiều, sử dụng xà phòng kháng khuẩn và chà xát sẽ không làm tăng thêm lợi ích.

Một chế độ ăn ít đường huyết và uống sữa điều độ có thể được xem xét đối với mụn trứng cá ở thanh thiếu niên kháng trị, nhưng hiệu quả của những biện pháp này trong điều trị mụn trứng cá vẫn còn gây tranh cãi. (1).

Các chất tẩy như sulphur, axit salicylic, axit glycolic, và resorcinol có thể là chất hỗ trợ hữu ích.

Thuốc tránh thai phối hợp (estrogen cộng với progestin) có hiệu quả trong điều trị mụn trứng cá viêm và không viêm (2) và spironolactone là một loại thuốc kháng androgen khác thường hữu ích ở phụ nữ (3, 4).

Các liệu pháp ánh sáng khác nhau, có và không có chất nhạy cảm ánh sáng tại chỗ, đã được sử dụng hiệu quả, chủ yếu là điều trị mụn viêm, nhưng bằng chứng hỗ trợ không có chất lượng cao (5).

Việc điều trị cần liên quan đến việc giáo dục bệnh nhân và điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với bệnh nhân thực tế. Thất bại trong điều trị thường là do thiếu tuân thủ kế hoạch và cũng như thiếu sự theo dõi. Có thể cần phải hội chẩn với chuyên gia nếu cần.

Các loại thuốc khác nhau có tác dụng như thế nào trong việc điều trị mụn trứng cá

Bảng
Bảng

Trứng cá nhẹ

Điều trị mụn trứng cá nhẹ cần phải được tiếp tục trong 6 tuần đến 12 tuần hoặc cho đến khi tổn thương đáp ứng. Điều trị duy trì thường là cần thiết để duy trì sự kiểm soát.

Đơn trị liệu để điều trị nhân mụn trứng cá. Nếu dung nạp tretinoin tại chỗ thì dùng để điều trị duy trì nhân mụn. Gel adapalene hàng ngày, kem hoặc gel tazarotene, kem axit azelaic và axit glycolic hoặc salicylic là những lựa chọn thay thế cho những bệnh nhân không thể dung nạp được tretinoin tại chỗ. Tác dụng phụ bao gồm hồng ban, bỏng rát, châm chích và bong da. Adapalen và tazarotene là retinoid; giống như tretinoin, chúng có thể gây kích ứng và nhạy cảm với ánh sáng. Axit Azelaic có đặc tính kháng khuẩn và tiêu nhân mụn bằng một cơ chế không liên quan và có thể phối hợp với retinoid.

Liệu pháp kép (ví dụ, phối hợp tretinoin với benzoyl peroxide, kháng sinh tại chỗ, hoặc cả hai) nên được sử dụng để điều trị trứng cá (viêm) nhẹ. Thuốc kháng sinh tại chỗ là erythromycin hoặc clindamycin. Kết hợp benzoyl peroxide với các loại kháng sinh này có thể giúp hạn chế sự phát triển của tình trạng kháng thuốc. Axit glycolic có thể được sử dụng thay thế hoặc phối hợp với tretinoin nhưng không còn được sử dụng phổ biến. Các phương pháp điều trị không có tác dụng phụ đáng kể ngoài việc khô và kích ứng (và phản ứng dị ứng hiếm gặp với benzoyl peroxide).

Nếu bệnh nhân không đáp ứng với điều trị tại chỗ thì loại bỏ nhân mụn bằng cơ học như trích nhân mụn. Lấy bỏ nhân mụn có thể được thực hiện bởi bác sĩ, y tá, hoặc trợ lý bác sĩ. Đầu cuối của dụng cụ lấy nhân mụn giống như một lưỡi lê hoặc lưỡi lê để chọc vào mụn nhân đóng. Đầu kia gây áp lực để trích nhân mụn.

Kháng sinh uống (ví dụ, tetracycline, minocycline, doxycycline, erythromycin) có thể được sử dụng khi tổn thương lan rộng mà không thể dùng thuốc tại chỗ.

Clascoterone là thuốc ức chế thụ thể androgen tại chỗ đầu tiên để điều trị mụn trứng cá. Nó có thể được sử dụng cho bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên. Kem clascoterone 1% bôi 2 lần/ngày. Các tác dụng bất lợi bao gồm đỏ, đóng vảy hoặc khô và ngứa; mặc dù tăng kali máu và ức chế trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận đã được dự đoán dựa trên cơ chế của nó nhưng những tác dụng này chưa được ghi nhận trên lâm sàng (7).

Trứng cá ở mức độ trung bình

Điều trị kháng sinh toàn thân là cách tốt nhất để điều trị trứng cá ở mức độ vừa phải. Thuốc kháng sinh hiệu quả cho trứng cá bao gồm tetracycline,minocycline, erythromycin, doxycycline và sarecycline. Hiệu quả tối đa khi điều trị 12 tuần.

Điều trị tại chỗ như đối với trứng cá nhẹ thường được sử dụng đồng thời với thuốc kháng sinh đường uống.

Doxycycline và minocycline là thuốc bước đầu; cả hai loại thuốc này đều có thể dùng lúc no. Tetracycline cũng hợp lý, nhưng không thể dùng lúc no và có thể có hiệu quả thấp hơn doxycycline và minocycline. Liều Doxycycline và minocycline là 50 đến 100 mg uống 2 lần/ngày. Doxycycline có thể gây nhạy cảm với ánh sáng, và minocycline có thể có nhiều tác dụng phụ khi dùng lâu dài, bao gồm lupus do thuốc và tăng sắc tố do thuốc. Để giảm tình trạng kháng thuốc kháng sinh thì sau khi kiểm soát được tổn thương (thường từ 2 đến 3 tháng) duy trì kháng sinh bằng liều càng thấp càng tốt. Sarecycline là một loại kháng sinh tetracycline mới hơn. Nếu điều trị tại chỗ kiểm soát bệnh tốt có thể dừng kháng sinh.

Erythromycin và azithromycin là những lựa chọn khác, nhưng các loại thuốc này có nhiều khả năng gây ra tác dụng bất lợi trên đường tiêu hóa và tình trạng kháng kháng sinh phát triển thường xuyên hơn. Một số bác sĩ cũng sử dụng sulfamethoxazole/trimethoprim, SMX-TMP, Cotrimoxazole. Tuy nhiên, tình trạng kháng kháng sinh có thể phát triển và phối hợp này có thể gây ra các phản ứng bất lợi hiếm gặp của thuốc.

Sử dụng kháng sinh lâu dài có thể gây viêm nang lông mụn mủ do vi khuẩn gram âm quanh mũi và ở giữa mặt. Sau khi dừng thuốc kháng sinh đường uống, các nhiễm khuẩn hiếm gặp có thể khó điều trị và tốt nhất là điều trị bằng isotretinoin uống. Ampicillin là một phương pháp điều trị thay thế cho viêm nang lông do vi khuẩn gram âm. Ở phụ nữ, sử dụng kháng sinh kéo dài có thể gây viêm âm đạo do nấm candida; nếu liệu pháp điều trị tại chỗ và toàn thân không giải quyết được vấn đề này thì phải ngừng điều trị bằng kháng sinh trị mụn.

Nếu bệnh nhân là nữ và không đáp ứng với kháng sinh đường uống, có thể xem xét thử nghiệm thuốc kháng androgen đường uống (thuốc tránh thai phối hợp và/hoặc spironolactone).

Trứng cá nặng

Isotretinoin uống là phương pháp điều trị tốt nhất cho các bệnh nhân bị mụn trứng cá ở mức độ trung bình mà kháng kháng sinh và đối với những người bị mụn trứng cá nặng. Liều dùng isotretinoin thường là 1 mg/kg, 1 lần/ngày trong 16 đến 20 tuần, nhưng liều có thể tăng lên 2 mg/kg, 1 lần/ngày. Nếu tác dụng phụ ở mức không dung nạp, có thể giảm liều xuống còn 0,5 mg/kg một lần/ngày. Sau khi điều trị, mụn có thể tiếp tục cải thiện.

Nhiều bệnh nhân không cần đợt điều trị thứ hai; khi cần thiết, nó chỉ được tiếp tục lại sau khi ngừng thuốc trong 4 (vài) tháng, ngoại trừ những trường hợp nặng thì có thể tiếp tục lại sớm hơn. Cần phải làm lại nếu liều khởi đầu thấp (0,5 mg/kg). Với liều lượng này (rất phổ biến ở Châu Âu), ít tác dụng phụ hơn, nhưng thường cần kéo dài thời gian điều trị. Liều lượng tích lũy đã nhận được sự ủng hộ; tổng liều từ 120 mg/kg đến 150 mg/kg dẫn đến tỷ lệ tái phát thấp hơn và một số chuyên gia đề xuất liều tích lũy cao hơn là 220 mg/kg (8).

Isotretinoin gần như luôn có hiệu quả, nhưng sử dụng hạn chế bởi các tác dụng phụ bao gồm khô kết mạc mắt và niêm mạc của bộ phận sinh dục, môi bị nứt, đau khớp, trầm cảm, tăng lipid máu và nguy cơ dị tật bẩm sinh nếu điều trị xảy ra trong thai kỳ. Bôi các chất có petrolatum thường làm giảm bớt khô da và niêm mạc. Đau khớp (phần lớn là khớp lớn hoặc lưng dưới) thường xảy ra. Nguy cơ trầm cảm và tự tử rất hiếm gặp nhưng ngày càng được công bố nhiều hơn. Mặc dù nguy cơ mắc bệnh viêm ruột mới hoặc trầm trọng hơn (bệnh Crohn và viêm đại tràng thể loét) đã được đề xuất là có liên quan đến việc sử dụng isotretinoin, mối liên quan như vậy hiện nay dường như khó xảy ra (9).

Công thức máu, xét nghiệm về gan, nồng độ triglyceride và cholesterol nên được xác định trước khi điều trị. Các xét nghiệm cần được đánh giá lại sau 4 tuần điều trị, trừ khi các triệu chứng bất thường được ghi nhận, không cần phải lặp lại cho đến khi kết thúc điều trị. Triglyceride hiếm khi tăng đến mức phải ngừng thuốc. Chức năng gan ít khi bị ảnh hưởng. Do isotretinoin gây quái thai, phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ được thông báo rằng họ phải sử dụng 2 phương pháp ngừa thai trong vòng 1 tháng trước khi điều trị, trong khi điều trị và trong ít nhất 1 tháng sau khi ngừng điều trị. Xét nghiệm thử thai nên được thực hiện trước khi bắt đầu điều trị và hàng tháng cho đến 1 tháng sau khi ngừng điều trị.

Trứng cá dạng nang

Tiêm nội tổn thương 0,1 mL dung dịch triamcinolone acetonide 2,5 mg/mL (pha loãng 10 mg/mL) được chỉ định cho những bệnh nhân có mụn trứng cá dạng nang (cystic) để cải thiện lâm sàng nhanh và giảm sẹo. Teo da tại chỗ có thể xảy ra nhưng thường là thoáng qua. Rạch và dẫn lưu các thương tổn đơn độc, tổn thương ướt thường có lợi nhưng có thể dẫn đến sẹo còn sót lại.

Các dạng khác của trứng cá

Viêm da mủ vùng mặt được điều trị bằng corticosteroid đường uống và isotretinoin.

Trứng cá tối cấp thường được điều trị bằng corticosteroid đường uống và kháng sinh toàn thân.

Trứng cá bọc được điều trị với isotretinoin đường uống và corticosteroid toàn thân nếu nặng và nếu kháng sinh toàn thân thất bại.

Thuốc kháng androgen được chỉ định điều trị trứng cá do các bất thường nội tiết (ví dụ như hội chứng buồng trứng đa nang, u tuyến thượng thận ở nữ giới). Spironolactone, thuốc có tác dụng kháng androgen, đôi khi được kê đơn để điều trị mụn trứng cá. Cyproterone acetate được sử dụng ở Châu Âu. Khi các biện pháp khác không thành công, có thể thử dùng biện pháp tránh thai có estrogen/progestin; cần điều trị 6 tháng để đánh giá hiệu quả.

Sẹo

Những vết sẹo nhỏ có thể được điều trị bằng lột hóa chất, tái tạo da bằng laser, hoặc làm mờ sẹo. Tổn thương sâu hơn, rải rác có thể tác được cắt bỏ. Tổn thương sâu hơn, rải rác có thể tác được cắt bỏ với sẹo lõm nông, lan tỏa có thể được điều trị bằng tách sẹo hoặc tiêm collagen hoặc chất bổ sung khác. Chất làm đầy, bao gồm cả collagen, axit hyaluronic, và polymethylmethacrylate, là tạm thời và phải được lặp lại định kỳ.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Dall'Oglio F, Nasca M, Fiorentini F, Micali G: Diet and acne: Review of the evidence from 2009 to 2020. Int J Dermatol 60(6):672–685, 2021. doi: 10.1111/ijd.15390 

  2. 2. Koltun W, Maloney JM, Marr J, et al: Treatment of moderate acne vulgaris using a combined oral contraceptive containing ethinylestradiol 20 μg plus drospirenone 3 mg administered in a 24/4 regimen: a pooled analysis. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol Tháng 4/2011;155(2):171-5. doi: 10.1016/j.ejogrb.2010.12.027. Xuất bản điện tử ngày 2 tháng 2 năm 2011.

  3. 3. Grandhi R, Alikhan A: Spironolactone for the Treatment of Acne: A 4-Year Retrospective Study. Dermatology 233(2-3):141-144, 2017. doi: 10.1159/000471799

  4. 4. Roberts EE, Nowsheen S, Davis MDP, et al: Treatment of acne with spironolactone: A retrospective review of 395 adult patients at Mayo Clinic, 2007-2017. J Eur Acad Dermatol Venereol 34(9):2106-2110, 2020 doi: 10.1111/jdv.16302

  5. 5. Barbaric J, Abbott R, Posadzki P, et al: Light therapies for acne. Cochrane Database Syst Rev 9(9):CD007917, 2016 doi: 10.1002/14651858.CD007917.pub2

  6. 6. Bienenfeld A, Nagler AR, Orlow SJ: Oral antibacterial therapy for acne vulgaris: An evidence-based review. Am J Clin Dermatol 18(4):469-490, 2017. doi: 10.1007/s40257-017-0267-z

  7. 7. Hebert A, Thiboutot D, Stein Gold L, et al: Efficacy and safety of topical clascoterone cream, 1%, for treatment in patients with facial acne: Two phase 3 randomized clinical trials. JAMA Dermatol 156(6):621–630, 2020. doi:10.1001/jamadermatol.2020.0465

  8. 8. Blasiak RC, Stamey CR, Burkhart CN, et al: High-dose isotretinoin treatment and the rate of retrial, relapse, and adverse effects in patients with acne vulgaris. JAMA Dermatol 149(12):1392–1398, 2013. doi: 10.1001/jamadermatol.2013.6746

  9. 9. Lee SY, Jamal MM, Nguyen ET, et al: Does exposure to isotretinoin increase the risk for the development of inflammatory bowel disease? A meta-analysis. Eur J Gastroenterol Hepatol 28(2):210–216, 2016. doi: 10.1097/MEG.0000000000000496

Tiên lượng về mụn trứng cá thông thường

Trứng cá có mức độ nghiêm trọng thường xảy ra tự phát từ những năm đầu đến giữa độ tuổi 20, nhưng phần lớn bệnh nhân, thường là phụ nữ, có thể bị trứng cá vào những năm 40 tuổi; các phương án điều trị có thể bị giới hạn do sinh con. Nhiều người lớn đôi khi phát triển các tổn thương trứng cá nhẹ và riêng biệt. Trứng cá không viêm và viêm nhẹ thường lành mà không có vết sẹo. trứng cá viêm trung bình đên nặng thường để lại sẹo. Sẹo không chỉ là ảnh hưởng thể chất; trứng cá có thể gây ảnh hưởng tâm lý nhiều cho thanh thiếu niên, mụn trứng cá có thể gây khó khăn thêm cho cuộc sống cá nhân. Hỗ trợ tư vấn cho bệnh nhân và cha mẹ có thể được chỉ định trong trường hợp nặng.

Những điểm chính

  • Nếu không có viêm, trứng cá có đặc trưng là nhân mụn và nếu viêm, là sẩn, mụn mủ, cục và nang.

  • Mụn trứng cá nhẹ và trung bình thường lành mà không có vết sẹo trong giai đoạn giữa độ tuổi 20.

  • Khuyến nghị bệnh nhân tránh các tác nhân gây ra bệnh (ví dụ: mỹ phẩm và quần áo gây tắc nghẽn, chất tẩy rửa, nước thơm, độ ẩm cao, một số loại thuốc, hóa chất, có thể ăn nhiều sản phẩm sữa hoặc chế độ ăn có chỉ số đường huyết cao).

  • Hãy xem xét tác động tâm lý cũng như thể chất của mụn trứng cá.

  • Kê các thuốc bạt sừng tại chỗ (như tretinoin) với mụn viêm, benzoyl peroxide, kháng sinh tại chỗ, hoặc cả hai.

  • Chỉ định một loại kháng sinh đường uống cho trứng cá mức độ trung bình và isotretinoin cho trứng cá nặng.

  • Điều trị trứng cá dạng nang với tiêm triamcinolone với các tổn thương cấp tính.

Thông tin thêm

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

  1. American Academy of Dermatology: Guidelines of Care for the Management of Acne Vulgaris (2024)