Theo dõi pH thực quản 24 giờ ngoại trú có hoặc không có nghiệm pháp trở kháng trong lòng dạ dày hiện là kiểm tra phổ biến nhất để định lượng trào ngược dạ dày thực quản (xem Hướng dẫn Lâm sàng 2022 về Chẩn đoán và Xử trí bệnh Trào ngược dạ dày thực quản của Hiệp hội Tiêu hóa Hoa Kỳ). Các chỉ định chính là
Ghi nhận luồng trào ngược quá mức axit hoặc không axit
Xác định mối tương quan giữa các triệu chứng và các luồng trào ngược
Xác định đối tượng để phẫu thuật chống trào ngược
Đánh giá hiệu quả của các điều trị nội khoa hoặc ngoại khoa
Theo dõi pH dịch chuyển có thể được thực hiện khi bệnh nhân đang dùng hoặc không dùng điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton (PPI).
Khi việc theo dõi được thực hiện trong khi bệnh nhân ngừng điều trị PPI, chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày thực quản có thể được xác nhận hoặc được loại trừ. Nếu việc theo dõi được thực hiện trong khi bệnh nhân ngừng điều trị bằng PPI và không tìm thấy độ pH axit trong dạ dày, thì chẩn đoán thiếu axit dịch vị được xác nhận.
Khi theo dõi được thực hiện trong khi bệnh nhân đang điều trị bằng PPI, có thể xác định được mức độ ức chế axit dạ dày đầy đủ và sự hiện diện của việc tiếp xúc với axit thực quản ở những bệnh nhân được giới thiệu xét nghiệm vì liệu pháp PPI thất bại.
Xét nghiệm có thể sử dụng ống thông đường mũi theo dõi liên tục luồng trào ngược hoặc thiết bị theo dõi pH thực quản không dây gắn vào đoạn xa thực quản qua nội soi.
Hiếm khi có biến chứng. Bệnh nhân không được ăn gì sau nửa đêm nhưng có thể tự do ăn uống như bình thường khi thiết bị theo dõi đã được đặt vào vị trí.
Theo dõi pH dựa trên ống thông
Một ống mỏng chứa đầu dò pH được đặt cách vị trí cơ thắt thực quản dưới 5cm.
Bệnh nhân ghi lại các triệu chứng, bữa ăn, ngủ trong 24 giờ. Thực quản tiếp xúc với axit được xác định bằng phần trăm trên tổng thời gian ghi < 4.0. Nếu thời gian với giá trị Ph < 4,0 là > 4,3%, thì kết quả này được coi là bất thường nếu bệnh nhân không dùng thuốc ức chế bơm proton, và kết quả > 1,3% là bất thường nếu bệnh nhân đã dùng thuốc ức chế bơm proton trong thời gian kiểm tra. Các cảm biển bổ sung dọc theo các vị trí đầu gần của đầu dò pH cho phép xác định các luồng trào ngược ở đầu gần.
Đầu dò pH kép: thực quản và dạ dày có hai cảm biến pH riêng biệt dọc theo ống thông; một cảm biến đặt trên cơ thắt thực quản dưới 5cm và một cảm biến được đặt ở dạ dày. Hai cảm biến này cho phép đo đồng thời độ pH ở đầu xa thực quản và trong dạ dày. Thử nghiệm này hữu ích nhất để đánh giá hiệu quả và mức đầy đủ của thuốc ức chế axit.
Các thiết bị theo dõi trở kháng pH kết hợp mới hơn cũng thực hiện kiểm tra trở kháng đa kênh trong lòng ống tiêu hóa, xác định mức trào ngược của bất kỳ chất nào chứa trong dạ dày vào thực quản bất kể mức độ pH. Ngoài trào ngược axit, kiểm tra này giúp phát hiện trào ngược có tính axit yếu (pH từ 4,0 đến 7) và trào ngược không axit (pH > 7), điều này sẽ bị bỏ qua nếu dùng theo dõi pH thông thường.
Mối tương quan giữa các triệu chứng do bệnh nhân báo cáo và các biến cố trào ngược có thể được đánh giá bằng cách sử dụng chỉ số triệu chứng hoặc xác suất liên kết triệu chứng. Một giá trị chỉ số triệu chứng đáng kể hoặc giá trị xác suất liên quan đến triệu chứng gợi ý rằng mối tương quan giữa các triệu chứng và biến cố trào ngược không phải do ngẫu nhiên. Trào ngược quá mức và tương quan triệu chứng - trào ngược đáng kể là những yếu tố tiên đoán tích cực về một kết quả thuận lợi từ phẫu thuật chống trào ngược.
Theo dõi pH không dây
Theo dõi pH thực quản di động cũng có thể được thực hiện bằng cách sử dụng viên nang cảm biến pH không dây được gắn vào đầu xa của thực quản.
Thiết bị được đặt bằng nội soi cách cơ thắt thực quản dưới 5 cm và liên tục theo dõi mức độ tiếp xúc với axit của thực quản (được định nghĩa là pH < 4,0) trong 48 đến 72 giờ. Tương tự như thử nghiệm dựa trên đầu dò, bệnh nhân ghi lại các triệu chứng, bữa ăn và giấc ngủ trong suốt thời gian thử nghiệm, đồng thời xác định mức độ phơi nhiễm axit quá mức và mối tương quan giữa triệu chứng-trào ngược (chỉ số triệu chứng hoặc xác suất liên quan đến triệu chứng). Tuy nhiên, viên nang là một cảm biến pH tinh khiết, chỉ phát hiện tình trạng axit trào ngược.
Viên nang thường rơi khỏi vị trí sau khoảng 1 tuần và bài xuất qua phân theo đường tự nhiên. Viên nang truyền dữ liệu không dây khi được gắn vào và không cần truy xuất.
Thông tin thêm
Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.
American College of Gastroenterology: Clinical Guideline for the Diagnosis and Management of Gastroesophageal Reflux Disease (2022)