Nấm móng là tình trạng nhiễm nấm ở móng tay, móng chân hoặc cả hai. Móng thường bị biến dạng và có màu trắng hoặc vàng. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng, soi tươi, nuôi cấy, PCR, hoặc kết hợp các phương pháp trên. Điều trị, khi được chỉ định, là uống terbinafine hoặc itraconazole.
(Xem thêm Tổng quan về Rối loạn Móng.)
Khoảng 10% (từ 2 đến 14%) dân số bị nấm móng.
Các yếu tố nguy cơ của bệnh nấm móng bao gồm
Loạn dưỡng móng trước đó (ví dụ, ở bệnh nhân vẩy nến)
Tuổi cao
Nam giới
Tiếp xúc với người bị nấm da hoặc bệnh nấm móng (ví dụ, một thành viên trong gia đình hoặc thông qua tắm công cộng)
Suy giảm miễn dịch
Móng chân bị bệnh cao hơn móng tay gấp 10 lần. Khoảng 60 đến 80% trường hợp là do chủng nấm dermatophyte (ví dụ, Trichophyton rubrum); nhiễm nấm dermatophyte ở móng được gọi là nấm móng (nấm unguium). Các trường hợp còn lại được gây ra bởi các chủng không phải dermatophyte (ví dụ, Aspergillus, Scopulariopsis, Fusarium). Những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và những người bị nhiễm candida da, niêm mạc mạn tính có thể bị nấm móng do candida (thường gặp hơn ở ngón tay). Nấm móng tiền lâm sàng cũng có thể xuất hiện ở những bệnh nhân bị nấm bàn chân tái phát. Bệnh nấm móng có thể dẫn đến bệnh nhân bị viêm mô bào ở chi dưới.
Triệu chứng và Dấu hiệu
Móng có các mảng màu trắng hoặc vàng không có triệu chứng và biến dạng. Có 3 hình thái đặc trưng thường gặp:
Phía dưới móng ở đầu xa: Móng dày và vàng, keratin và các mảnh vụn tích tụ ở đầu xa và bên dưới, và móng tách ra khỏi giường móng (ly móng).
Phía dưới móng ở đầu gần: Tổn thương bắt đầu ở đầu gần và là một dấu hiệu của suy giảm miễn dịch.
Trắng bề mặt: Một lớp vẩy trắng như phấn từ từ lan rộng từ dưới bề mặt móng.
Chẩn đoán
Đánh giá lâm sàng
Soi tươi bằng KOH
Nuôi cấy hoặc phản ứng chuỗi polymerase (PCR)
Sinh thiết nhuộm PAS bằng cách cắt móng và từ các mảnh vỡ dưới móng
(Xem thêm cập nhật các phương pháp tiếp cận chẩn đoán và điều trị nấm móng hiện tại.)
Lâm sàng nghi ngờ nấm móng; các đặc điểm lâm sàng dự đoán nấm móng bao gồm sự liên quan ở móng chân thứ 3 hoặc móng thứ 5, sự liên quan của móng chân thứ nhất và móng thứ 5 trên cùng một chân, sự biến dạng của một móng, nhưng chỉ ở bệnh nhân có nấm bàn chân. Nấm móng tiền lâm sàng nên được xem xét ở những bệnh nhân có nấm bàn chân tái phát.
Phân biệt với bệnh vẩy nến hoặc là lichen phẳng rất quan trọng bởi vì điều trị khác nhau, do đó chẩn đoán thường được xác nhận qua kiểm tra bằng kính hiển vi, và, nếu khi kết quả của kính hiển vi không thể kết luận thì cần đến nuôi cấy hoặc PCR. Bệnh phẩm được lấy từ vị trí đầu gần nhất nơi có thể tiếp cận được móng tay bị ảnh hưởng và dùng để kiểm tra các sợi nấm trên tiêu bản KOH và nuôi cấy. Mặc dù đắt hơn, PCR đã trở thành một kỹ thuật phổ biến hơn để xác nhận chẩn đoán bệnh nấm móng, đặc biệt nếu nuôi cấy âm tính hoặc cần chẩn đoán xác định (1, 2, 3). Mô bệnh học nhuộm từ việc cắt móng bị ảnh hưởng và các mảnh vỡ dưới móng cũng có thể hữu ích.
Lấy mẫu móng phù hợp cho việc nuôi cấy có thể khó khăn bởi vì các mảnh vỡ dưới móng ở đầu xa, dễ để lấy mẫu, thường không chứa nấm còn sống. Do đó, loại bỏ phần xa của móng bằng việc cắt bỏ trước khi lấy mẫu hoặc sử dụng một curette nhỏ để tiếp cận gần dưới móng hơn sẽ tăng hiệu quả.
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. Joyce A, Gupta AK, Koenig L, et al: Fungal Diversity and Onychomycosis: An analysis of 8,816 toenail samples using quantitative PCR and next-generation sequencing. J Am Podiatr Med Assoc 109(1):57–63, 2019. doi: 17–19 [291–325]
2. Haghani I, Shams-Ghahfarokhi M, Dalimi Asl A, et al: Molecular identification and antifungal susceptibility of clinical fungal isolates from onychomycosis (uncommon and emerging species). Mycoses 62 (2): 128–143, 2019. doi: 10.1111/myc.12854
3. Gupta AK, Mays RR, Versteeg SG, et al: Cập nhật các phương pháp tiếp cận chẩn đoán và điều trị nấm móng hiện tại. Expert Rev Anti Infect Ther 16(12):929–938, 2018. doi: 10.1080/00016489.2017.1412500
Điều trị
Lựa chọn điều trị là sử dụng terbinafine hoặc itraconazole đường uống
Đôi khi sử dụng các phương pháp điều trị tại chỗ (như efinaconazole, tavaborole, ciclopirox 8%, amorolfine)
Bệnh nấm móng không phải lúc nào cũng được điều trị vì nhiều trường hợp không có triệu chứng hoặc nhẹ và không gây biến chứng, và các thuốc chống nấm đường uống là phương pháp điều trị hiệu quả nhất có thể gây độc gan và tương tác thuốc nghiêm trọng. Một số đề xuất để điều trị bao gồm:
Viêm mô bào cùng bên trước đó
Bệnh tiểu đường hoặc các yếu tố nguy cơ khác đối với viêm mô bào
Sự hiện diện của các triệu chứng khó chịu
Tác động tâm lý xã hội
Mong muốn cải thiện thẩm mỹ (gây tranh cãi)
Điều trị nấm móng thường là terbinafine uống hoặc itraconazole. Terbinafine 250 mg một lần/ngày trong 12 tuần (6 tuần đối với nấm móng tay) hoặc thêm 250 mg mỗi ngày một lần trong 1 tuần một tháng cho đến khi móng sạch sẽ đạt tỷ lệ khỏi 75-80% và itraconazole 200 mg, 2 lần/ngày, 1 tuần/tháng trong 3 tháng đạt tỷ lệ khỏi 40 đến 50% nhưng tỷ lệ tái phát ước tính cao 10 đến 50%. Không hoàn toàn cần thiết phải điều trị cho đến khi hết móng bất thường vì những thuốc này vẫn bám vào móng và tiếp tục có hiệu quả sau khi hết uống; tuy nhiên, nguy cơ tái phát có thể cao hơn trong những trường hợp này. Móng bị ảnh hưởng sẽ không trở lại bình thường; tuy nhiên, móng mới phát triển sẽ xuất hiện bình thường. Fluconazole cũng có thể là một lựa chọn.
Các thuốc bôi tại chỗ mới hơn là efinaconazole và tavaborole có thể xâm nhập sâu vào bản móng và có hiệu quả hơn các thuốc bôi tại chỗ cũ.
Các phương pháp điều trị bao gồm các hệ thống phân phối mới cho terbinafine. Thuốc sơn móng chống nấm tại chỗ bao gồm efinaconazole 10%, ciclopirox 8% hoặc amorolfine 5% (không có ở Mỹ) đôi khi có hiệu quả như là điều trị ban đầu (tỷ lệ khỏi khoảng 30%) và có thể cải thiện tỷ lệ khỏi khi dùng làm thuốc bổ trợ cho thuốc đường uống, đặc biệt đối với những trường hợp kháng thuốc.
Để hạn chế tái phát, bệnh nhân nên cắt ngắn móng, lau chân khô sau khi tắm, đi tất thấm bút mồ hôi và sử dụng bột chống nấm. Giày cũ có thể chứa mật độ bào tử cao và, nếu có thể, không nên đi giày cũ.
Những điểm chính
Bệnh nấm móng rất phổ biến, đặc biệt ở những nam giới, lớn tuổi và bệnh nhân suy giảm lưu thông mạch máu ở các chi, loạn dưỡng móng, và/hoặc nấm bàn chân.
Nghi ngờ chẩn đoán dựa vào biểu hiện lâm sàng và hình thái của móng tổn thương và xác nhận bằng kính hiển vi và nuôi cấy hoặc PCR.
Điều trị chỉ được bảo đảm nếu bệnh nấm móng gây ra biến chứng hoặc các triệu chứng khó chịu.
Nếu điều trị được bảo đảm, hãy xem xét terbinafine (điều trị hiệu quả nhất) và các biện pháp phòng ngừa tái phát (ví dụ, hạn chế độ ẩm, bỏ giày cũ, cắt ngắn móng).
Thông tin thêm
Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.