Nhiễm virus viêm gan B (HBV) ở trẻ sơ sinh

TheoAnnabelle de St. Maurice, MD, MPH, UCLA, David Geffen School of Medicine
Xem xét bởiBrenda L. Tesini, MD, University of Rochester School of Medicine and Dentistry
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 4 2025
v1091799_vi
Nhiễm vi rút viêm gan B ở trẻ sơ sinh thường xảy ra trong quá trình sinh nở và thường không có triệu chứng nhưng có thể gây ra bệnh mạn tính dưới lâm sàng ở giai đoạn sau của thời thơ ấu hoặc trưởng thành. Nhiễm trùng có triệu chứng gây ra bệnh vàng da, lờ đờ, chậm phát triển và giảm cân (trước đây là chậm phát triển), chướng bụng và phân có màu đất sét. Chẩn đoán bằng huyết thanh học. Hiếm khi, bệnh có thể biểu hiện nặng với tình trạng suy gan cấp và có thể cần ghép gan. Bệnh mức độ nhẹ thì được điuề trị bằng các biện pháp điều trị hỗ trợ. Miễn dịch chủ động hoặc thụ động giúp ngăn ngừa sự lây truyền dọc.

(Xem thêm Tổng quan về viêm gan vi rút cấp tính ở người lớn và Tổng quan về nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh.)

Vi rút viêm gan B (HBV) là dạng viêm gan vi rút duy nhất được phát hiện có thể gây viêm gan ở trẻ sơ sinh. Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh do các loại vi rút khác (ví dụ: cytomegalovirus, vi rút herpes simplex) có thể gây viêm gan cùng với các biểu hiện lâm sàng khác.

Căn nguyên của nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh

Nhiễm HBV xảy ra trong cuộc sinh. Nguy cơ lây truyền là 70% đến 90% ở những phụ nữ có huyết thanh dương tính với kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg) và kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg—xem Huyết thanh học) tại thời điểm sinh nở. Phụ nữ không có kháng nguyên e chỉ lây nhiễm từ 5% đến 20% thời gian (1).

Lây truyền HBV từ mẹ sang con chủ yếu là do truyền máu nhỏ từ mẹ sang con trong quá trình chuyển dạ hoặc do tiếp xúc với dịch âm đạo có vi rút gây bệnh. Sự lây truyền virus qua nhau thai được xác định < 2% các trường hợp lây nhiễm mẹ con. Lây truyền sau khi sinh hiếm khi xảy ra thông qua tiếp xúc với máu, nước bọt, phân, nước tiểu hoặc sữa mẹ có vi rút gây bệnh. Lên đến 90% số trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh trong thời kỳ chu sinh sẽ phát triển thành nhiễm trùng mạn tính và nhiễm HBV mắc phải trong thời kỳ quanh sinh có thể là ổ chứa vi rút quan trọng ở một số cộng đồng (1).

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

  1. 1. Wong F, Pai R, Van Schalkwyk J, Yoshida EM. Hepatitis B in pregnancy: a concise review of neonatal vertical transmission and antiviral prophylaxis. Ann Hepatol. 2014;13(2):187-195.

Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh

Hầu hết trẻ sơ sinh bị nhiễm HBV đều không có triệu chứng nhưng tiến triển bệnh mạn tính, biểu hiện cận lâm sàng bằng tình trạng tồn tại dai dẳng HBsAg dương tính và biến đổi men gan. Trẻ sơ sinh sinh con của bà mẹ bị viêm gan B cấp tính trong thời kỳ mang thai có cân nặng khi sinh thấp, bất kể chúng có bị nhiễm bệnh hay không.

Thông thường, trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh phát triển viêm gan B cấp tính có triệu chứng, thường nhẹ và tự khỏi. Trẻ bị vàng da, lờ đờ, chậm phát triển và giảm cân, chướng bụng và phân có màu đất sét.

Đôi khi, bị nhiễm trùng trở nặng có gan to, cổ chướng, tăng bilirubin liên hợp.

Hiếm khi, bệnh có thể biểu hiện tối cấp và thậm chí tử vong. Bệnh biểu hiện tối cấp có thể gặp ở trẻ sơ sinh con của bà mẹ có viêm gan B mạn tính.

Chẩn đoán nhiễm HBV sơ sinh

  • Xét nghiệm huyết thanh học

  • Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm (HBsAg, HBeAg, kháng thể e, định lượng HBV DNA, công thức máu bao gồm tiểu cầu, xét nghiệm chức năng gan)

  • Siêu âm gan

Chẩn đoán nhiễm HBV sơ sinh dựa vào xét nghiệm huyết thanh học, bao gồm xét nghiệm HBsAg, HBeAg, kháng thể kháng viêm gan B (anti-HBe), và lượng tử DNA HBV trong máu. Các xét nghiệm ban đầu khác bao gồm công thức máu (CBC) có số lượng tiểu cầu, nồng độ alanine aminotransferase (ALT) và alpha-fetoprotein và siêu âm gan.

Gia đình có tiền sử ung thư gan hoặc bệnh gan được chú ý vì nguy tiến triển ung thư biểu mô tế bào gan. Nếu xét nghiệm cho thấy nhiễm HBV, cần hội chẩn bác sĩ chuyên khoa về gan mật trẻ em.

Điều trị nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh

  • Chăm sóc hỗ trợ

  • Đôi khi nucleoside (tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa gan nhi)

Điều trị triệu chứng và dinh dưỡng đầy đủ là cần thiết. Cả corticosteroid và globulin miễn dịch đều không có hiệu quả đối với viêm gan virus B cấp tính. Không có liệu pháp nào làm giảm khả năng phát triển bệnh viêm gan mạn tính, cận lâm sàng sau khi bị nhiễm bệnh.

Tất cả trẻ em bị nhiễm HBV mạn tính cần được chủng ngừa vắc-xin viêm gan A.

Trẻ em bị nhiễm HBV mạn tính có thể được hưởng lợi từ nucleoside hoặc các thuốc tương tự nucleotide, nhưng chỉ nên sử dụng sau khi tham khảo ý kiến ​​của bác sĩ nhi khoa về bệnh gan.

Trong một số trường hợp hiếm gặp, bệnh nặng có thể cần phải ghép gan.

Tiên lượng nhiễm HBV sơ sinh

Tiên lượng dài hạn là không thể dự đoán được. Tuy nhiên, nhiễm HBV mạn tính ở giai đoạn đầu đời làm tăng nguy cơ mắc bệnh gan sau này bao gồm viêm gan mạn tính, xơ gan, bệnh gan giai đoạn cuối và ung thư biểu mô tế bào gan.

Phòng ngừa nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh

Bệnh nhân mang thai nên được xét nghiệm HBsAg trong lần khám thai ở giai đoạn đầu. Nếu không xét nghiệm được vào thời điểm đó, họ cần được xét nghiệm khi nhập viện để sinh. Một số phụ nữ có HBsAg dương tính được điều trị bằng liệu pháp kháng vi rút (tenofovir disoproxil fumarate hoặc tenofovir alafenamide) trong ba tháng thứ ba của thai kỳ, có thể ngăn ngừa lây truyền HBV ở giai đoạn chu sinh (1).

Trẻ sơ sinh có mẹ biết là có HBsAg dương tính hoặc mẹ có bằng chứng khác về nhiễm HBV (ví dụ: có DNA HBV, HBeAg dương tính hoặc được biết là bị nhiễm HBV mạn tính) nên được tiêm trong vòng 12 giờ sau khi sinh: 1 liều globulin miễn dịch viêm gan B tiêm bắp (HBIG) và liều đầu tiên trong loạt vắc xin HBV tái tổ hợp tiêm bắp (HBIG và liều vắc-xin HBV đầu tiên được tiêm đồng thời nhưng ở các vị trí tiêm khác nhau) (2). Sau đó, liệu trình vắc xin HBV được hoàn tất, mũi thứ hai được tiêm sau 1 tháng đến 2 tháng và mũi thứ ba được tiêm sau mũi đầu tiên từ 6 tháng đến 18 tháng. Nếu trẻ nặng < 2 kg, liều vắc xin đầu tiên có thể kém hiệu quả hơn, vì vậy trẻ cần được tiêm thêm 3 liều vắc xin bắt đầu từ 1 tháng đến 2 tháng sau khi sinh theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Xét nghiệm HBsAg và anti-HBs ở thời điểm 9 tháng đến 12 tháng (hoặc 1 tháng đến 2 tháng sau khi hoàn tất việc tiêm chủng) được khuyến nghị cho tất cả trẻ sơ sinh sinh ra từ những bà mẹ có HBsAg dương tính (3).

Trẻ sơ sinh có mẹ không rõ tình trạng HBsAg tại thời điểm sinh cũng nên được tiêm liều vắc xin đầu tiên trong vòng 12 giờ sau khi sinh. Đối với trẻ sơ sinh < 2 kg, liều đầu tiên được tiêm đồng thời với HBIG ở một vị trí khác. Đối với trẻ sơ sinh ≥ 2 kg và mẹ của trẻ có thể xét nghiệm HBsAg và được đảm bảo theo dõi, HBIG có thể được trì hoãn tới 7 ngày và được tiêm nếu mẹ có kết quả xét nghiệm HBsAg dương tính.

Trẻ sơ sinh có mẹ biết là âm tính với HBsAg nên được tiêm liều vắc-xin HBV đầu tiên trong vòng 24 giờ sau khi sinh nếu tình trạng sức khỏe ổn định và cân nặng ≥ 2 kg. Đối với trẻ sơ sinh < 2 kg, nên tiêm 1 liều vắc xin lúc 1 tháng tuổi hoặc trước khi xuất viện (4).

(Xem thêm Center for Disease Control and Prevention's hepatitis B vaccination notes.)

Không khuyến khích việc tách trẻ sơ sinh khỏi người mẹ có HBsAg dương tính và việc cho con bú dường như không làm tăng nguy cơ lây truyền HBV sau khi sinh, đặc biệt là nếu đã tiêm HBIG và vắc-xin HBV (1). Nếu bệnh nhân đang nuôi con bằng sữa mẹ bị chảy máu núm vú, cần loại bỏ sữa từ bên vú bị thương tổn trong khi vẫn tiếp tục cho con bú hoặc hút sữa từ bên vú không bị thương tổn cho đến khi núm vú chảy máu lành lại để không cho trẻ sơ sinh tiếp xúc trực tiếp với máu (5).

Tài liệu tham khảo về phòng ngừa

  1. 1. Viral Hepatitis in Pregnancy: ACOG Clinical Practice Guideline No. 6. Obstet Gynecol. 2023;142(3):745-759. doi:10.1097/AOG.0000000000005300

  2. 2. Schillie S, Vellozzi C, Reingold A, et al. Prevention of Hepatitis B Virus Infection in the United States: Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices. MMWR Recomm Rep. 2018;67(1):1-31. Xuất bản ngày 12 tháng 1 năm 2018. doi:10.15585/mmwr.rr6701a1

  3. 3. Centers for Disease Control and Prevention (CDC): Clinical Guidance for Perinatal Hepatitis B Testing. Screening and testing guidelines: Infants and children. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2025.

  4. 4. COMMITTEE ON INFECTIOUS DISEASES; COMMITTEE ON FETUS AND NEWBORN. Elimination of Perinatal Hepatitis B: Providing the First Vaccine Dose Within 24 Hours of Birth. Pediatrics. 2017;140(3):e20171870. doi:10.1542/peds.2017-1870

  5. 5. Society for Maternal-Fetal Medicine (SMFM). Địa chỉ điện tử: pubs@smfm.org, Badell ML, Prabhu M, et al. Society for Maternal-Fetal Medicine Consult Series #69: Hepatitis B in pregnancy: updated guidelines. Am J Obstet Gynecol. 2024;230(4):B2-B11. doi:10.1016/j.ajog.2023.12.023

Những điểm chính

  • Vi rút viêm gan B (HBV) là nguyên nhân duy nhất được biết đến gây ra bệnh viêm gan vi rút ở trẻ sơ sinh; bệnh này thường lây truyền trong quá trình sinh nở.

  • Hầu hết trẻ sơ sinh không có triệu chứng nhưng tiến triển mạn tính với xét nghiệm HBsAg tồn tại mạn tính và biến đổi men gan.

  • Một số trẻ sơ sinh bị viêm gan nhẹ, và một số ít có thể tiến triển viêm gan cấp hay tối cấp.

  • Làm xét nghiệm huyết thanh học của trẻ sơ sinh và mẹ.

  • Trẻ em bị nhiễm HBV nên được tiêm vắc-xin phòng viêm gan A; thuốc kháng HBV (ví dụ: interferon alfa) có thể có hiệu quả nhưng chỉ nên sử dụng sau khi tham khảo ý kiến ​​của bác sĩ chuyên khoa gan nhi.

  • Trẻ sơ sinh có mẹ xét nghiệm HBsAg dương tính nên được tiêm một liều HBIG tiêm bắp và tiêm liều vắc-xin HBV đầu tiên đồng thời trong vòng 12 giờ sau khi sinh.