Nhiễm Herpes Simplex (HSV) ở trẻ sơ sinh

TheoAnnabelle de St. Maurice, MD, MPH, UCLA, David Geffen School of Medicine
Xem xét bởiBrenda L. Tesini, MD, University of Rochester School of Medicine and Dentistry
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa đã sửa đổi Thg 4 2025
v1091845_vi
Nhiễm virus herpes simplex sơ sinh thường lây truyền trong cuộc đẻ. Dấu hiệu điển hình với tổn thương mụn phỏng vỡ mủ có thể khu trú hoặc tan tỏa các cơ quan. Chẩn đoán dựa vào nuôi cấy vi rút, xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase, miễn dịch huỳnh quang, hoặc kính hiển vi điện tử. Điều trị với acyclovir liều cao và chăm sóc hỗ trợ.

Nguồn chủ đề

(Xem thêm Nhiễm trùng do vi rút Herpes Simplex [HSV] ở người lớn và Tổng quan về nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh.)

Nhiễm trùng do HSV ở trẻ sơ sinh có tỷ lệ tử vong cao và bệnh tật đáng kể. Tỷ lệ mắc bệnh ở Hoa Kỳ cao tới khoảng 1 trên 2000 ca sinh sống (1). HSV loại 2 gây ra nhiều trường hợp bệnh hơn HSV type 1.

HSV thường lây truyền trong quá trình sinh nở thông qua đường sinh dục của mẹ bị nhiễm trùng hoặc tiếp xúc với dịch âm đạo có nhiễm trùng. Một số trường họp nhiễm bệnh do tình trạng bội nhiễm bệnh viện thông qua trẻ sơ sinh khác nhiễm bệnh hoặc nhân viên y tế hoặc người nhà bệnh nhân. Các bà mẹ có con bị nhiễm HSV thường mới mắc bệnh nhiễm trùng bộ phận sinh dục nhưng nhiều người không có triệu chứng vào thời điểm sinh.

Tài liệu tham khảo chung

  1. 1. Committee on Infectious Diseases, American Academy of PediatricsHerpes Simplex in Red Book: 2024–2027 Report of the Committee on Infectious Diseases, ed. 33, edited by Kimberlin DW, Banerjee R, Barnett ED, Lynfield R, and Sawyer MH. Itasca, American Academy of Pediatrics, 2024.

Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm HSV sơ sinh

Biểu hiện lâm sàng thường xuất hiện trong khoảng từ tuần đầu tiên đến tuần thứ ba của cuộc đời nhưng hiếm khi phải đến tuần thứ tư mới xuất hiện. Trẻ có thể biểu hiện bệnh tại chỗ hoặc toàn thân.

Các mụn nước trên da thường gặp ở cả hai loại, xuất hiện ở khoảng 70% số trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh không có mụn nước trên da thường bị tổn thương mắt, tổn thương miệng hoặc nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương (CNS). Ở trẻ sơ sinh bị bệnh da hoặc niêm mạc đơn độc, các dạng bệnh tiến triển hoặc các dạng nghiêm trọng hơn thường xảy ra trong vòng 7 ngày đến 10 ngày nếu không được điều trị (1).

Biểu hiện lâm sàng của nhiễm trùng do vi rút Herpes Simplex (HSV) ở trẻ sơ sinh
Vi rút Herpes Simplex (HSV) khu trú ở trẻ sơ sinh
Vi rút Herpes Simplex (HSV) khu trú ở trẻ sơ sinh

Cận cảnh miệng của một trẻ sơ sinh này cho thấy một vết loét lớn màu đỏ dưới môi trên do HSV-1 gây ra.

BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Vi rút Herpes Simplex (HSV) lan tỏa ở trẻ sơ sinh
Vi rút Herpes Simplex (HSV) lan tỏa ở trẻ sơ sinh

Trẻ sơ sinh mắc bệnh AIDS này cũng bị nhiễm HSV-2 lan tỏa với các tổn thương bao phủ toàn bộ cơ thể.

BÁC SĨ M.A. ANSARY/SCIENCE PHOTO LIBRARY

Nhiễm vi rút herpes simplex ở trẻ sơ sinh
Nhiễm vi rút herpes simplex ở trẻ sơ sinh

Các đám mụn nước trên nền ban đỏ là đặc trưng và có thể có ở hầu hết mọi bộ phận của cơ thể.

Được sự cho phép của nhà xuất bản. Từ Demmler G: Nhiễm trùng bẩm sinh và chu sinh. Trong Atlas of Infectious Diseases: Pediatric Infectious Diseases. Biên tập bởi CM Wilfert. Philadelphia, Current Medicine, 1998.

Bệnh cục bộ

Trẻ sơ sinh bị bệnh khu trú có thể được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 có viêm não với biểu hiện của triệu chứng thần kinh, tăng bạch cầu và tăng protein dịch não tủy, có hoặc không có triệu chứng ở da, mắt và miệng. Nhóm 2 chỉ có da, mắt và miệng và không có triệu chứng của hệ thần kinh hoặc các cơ quan khác.

Bệnh lan tỏa

Bệnh có thể lan tỏa nhiều cơ quan bao gồm viêm gan, viêm phổi, đông máu nội quản mao mạch, có hoặc không có triệu chứng viêm não hoặc tổn thương ngoài da.

Các dấu hiệu khác, có thể xảy ra đơn lẻ hoặc đi kèm các triệu chứng khác bao gồm thay đổi về thân nhiệt, li bì, giảm trương lực cơ, suy hô hấp, ngưng thở, và co giật.

Tài liệu tham khảo về các triệu chứng và dấu hiệu

  1. 1. Kimberlin DW. Neonatal herpes simplex infection. Clin Microbiol Rev. 2004;17(1):1-13. doi:10.1128/CMR.17.1.1-13.2004

Chẩn đoán nhiễm HSV sơ sinh

  • Nuôi cấy HSV hoặc phản ứng chuỗi polymerase (PCR)

  • Đôi khi xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang các tổn thương hoặc soi kính hiển vi điện tử

Chẩn đoán nhanh bằng cách nuôi cấy virus hoặc HSV PCR là rất cần thiết. Vị trí tổn thương thường dùng nhất là các nốt phỏng ở trên da. Các dịch mũi họng, mắt, trực tràng, máu, và dịch não tủy cũng cần được kiểm tra. Ở một số trẻ sơ sinh bị viêm não, virus chỉ có ở hệ thần kinh trung ương. Chẩn đoán HSV sơ sinh cũng có thể được thực hiện bằng cách miễn dịch huỳnh quang của vết tổn thương dạng phỏng, đặc biệt với việc sử dụng các kháng thể đơn dòng và kính hiển vi điện tử.

Nếu không có phương tiện vi rút chẩn đoán nào, kiểm tra Tzanck của các tổn thương có thể cho thấy các tế bào khổng lồ đa nhân và nhiều hạt nhân đặc hiệu, nhưng xét nghiệm này độ nhay thấp và tỷ lệ dương tính giả có thể xảy ra.

Tất cả trẻ sơ sinh mắc bệnh do HSV đều phải được khám nhãn khoa và chụp ảnh thần kinh.

Điều trị nhiễm HSV sơ sinh

  • Acyclovir theo đường tĩnh mạch

  • Liệu pháp hỗ trợ

Acyclovir nên được bắt đầu ngay lập tức ngày khi có triệu chứng hay tiền sử bệnh nghi ngờ trong lúc chờ kết quả xét nghiệm khẳng định. Trẻ sơ sinh bị bệnh lan tỏa và/hoặc bệnh ở hệ thần kinh trung ương được dùng acyclovir trong 21 ngày. Sau phác đồ này, trẻ sơ sinh mắc bất kỳ dạng bệnh HSV nào đều được dùng acyclovir đường uống trong 6 tháng; phác đồ dài hạn này cải thiện kết quả phát triển thần kinh ở trẻ 1 tuổi nhưng có thể gây giảm bạch cầu trung tính.

Cần phải có liệu pháp hỗ trợ tích cực, bao gồm dịch truyền tĩnh mạch thích hợp, hỗ trợ dinh dưỡng, hỗ trợ hô hấp, điều chỉnh bất thường về đông máu và kiểm soát co giật.

Đối với bệnh tại chỗ (da, miệng hoặc kết mạc), điều trị bằng acyclovir trong 14 ngày.

Viêm giác mạc kết mạc do herpes cần phải điều trị tại chỗ kết hợp với một loại thuốc như trifluridine hoặc ganciclovir (xem phần điều trị viêm giác mạc kết mạc do herpes).

Tiên lượng về nhiễm HSV sơ sinh

Tỷ lệ tử vong do bệnh herpes simplex lan tỏa không được điều trị là 85%; ở trẻ sơ sinh bị viêm não không được điều trị, tỷ lệ này là khoảng 50%. Nếu không điều trị, ít nhất 65% số trẻ có tổn thương lan tỏa hoặc có viêm não sẽ có di chứng thần kinh nặng. Điều trị thích hợp, bao gồm acyclovir tiêm truyền, làm giảm tỷ lệ tử vong trong bệnh ở hệ thần kinh trung ương và bệnh lan tỏa tới 50% và làm tăng đáng kể tỷ lệ trẻ em phát triển bình thường. Tuy nhiên, ngay cả ở trẻ sơ sinh đã được điều trị, di chứng về thần kinh và phát triển vẫn được ghi nhận ở 13% số trẻ mắc bệnh lan tỏa và ở 40% đến 70% số trẻ mắc bệnh ở hệ thần kinh trung ương (1, 2).

Trẻ nhiễm HSV khu trú da, mắt hoặc miệng rất ít khi gây biến chứng nặng hoặc tử vong. Tuy nhiên, nếu không được điều trị, nhiều trẻ sơ sinh sẽ tiến triển thành bệnh lan tỏa hoặc bệnh ở hệ thần kinh trung ương mà có thể không được phát hiện.

Tài liệu tham khảo về tiên lượng

  1. 1. Kimberlin DW. Neonatal herpes simplex infection. Clin Microbiol Rev. 2004;17(1):1-13. doi:10.1128/CMR.17.1.1-13.2004

  2. 2. Malm G. Neonatal herpes simplex virus infection. Semin Fetal Neonatal Med. 2009;14(4):204-208. doi:10.1016/j.siny.2009.01.005

Phòng ngừa nhiễm HSV ở trẻ sơ sinh

Những nỗ lực phòng ngừa lây truyền ở trẻ sơ sinh không hiệu quả lắm. Hầu hết các trường hợp nhiễm trùng ở mẹ có nguy cơ lây truyền sang con đều không có triệu chứng.

Để ngăn ngừa nhiễm herpes ở trẻ sơ sinh, bệnh nhân mang thai có tiền sử herpes sinh dục nên được cung cấp liệu pháp ức chế virus ở hoặc sau tuần thứ 36 của thai kỳ (1). Sinh mổ được khuyến nghị cho những bệnh nhân mang thai có tổn thương herpes simplex sinh dục đang hoạt động hoặc có các triệu chứng báo trước tại thời điểm sinh.

Trẻ sơ sinh sinh ra từ những người có tổn thương ở hệ sinh dục đang hoạt động tại thời điểm sinh thường nên được đánh giá và xét nghiệm nhiễm HSV (2).

Tài liệu tham khảo về phòng ngừa

  1. 1. Management of Genital Herpes in Pregnancy: ACOG Practice Bulletin, Number 220. Obstet Gynecol. 2020;135(5):e193-e202. doi:10.1097/AOG.0000000000003840

  2. 2. Kimberlin DW, Baley J, Committee on infectious diseases, Committee on fetus and newborn. Guidance on management of asymptomatic neonates born to women with active genital herpes lesions. Pediatrics. 2013;131(2):e635-646. doi:10.1542/peds.2012-3216

Những điểm chính

  • Nhiễm trùng do herpes ở trẻ sơ sinh có thể khu trú ở da, mắt hoặc miệng, hệ thần kinh trung ương hoặc có thể lan tỏa.

  • Viêm não do HSV và nhiễm HSV hệ thống có tỷ lệ tử vong cao, với trẻ sông sót để lại di chứng thần kinh nặng nề.

  • Trong các trường hợp nghi ngờ, điều trị ngay lập tức và chẩn đoán nhanh chóng bằng PCR HSV của dịch não tủy, máu, hoặc các thương tổn là cần thiết và cải thiện kết quả điều trị.

  • Tiêm acyclovir cho tất cả các trường hợp trẻ nhiễm HSV cục bộ hay lan tỏa.

  • Thực hiện sinh mổ nếu người mẹ có tổn thương herpes sinh dục đang hoạt động hoặc có các triệu chứng báo trước khi sinh.