Blastomycosis

(Bệnh Gilchrist, Bệnh nhiễm Blastomyces phổi ở Bắc Mỹ)

TheoPaschalis Vergidis, MD, MSc, Mayo Clinic College of Medicine & Science
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 9 2023

Bệnh nấm sâu Blastomyces là bệnh phổi do hít phải bào tử nấm lưỡng hình Blastomyces dermatitidis. Đôi khi, nấm lây lan theo đường máu, gây bệnh ngoài phổi. Triệu chứng đa dạng, từ viêm phổi đến triệu chứng nhiều cơ quan khác trong bệnh cảnh lan tỏa tiên triển, phổ biến nhất là tổn thương da. Chẩn đoán lâm sàng, chụp X quang phổi, hoặc cả hai; chẩn đoán xác định bằng các xét nghiệm tìm nấm. Đối với nhiễm trùng nặng, bắt đầu điều trị bằng công thức bào chế có lipid của amphotericin B. Sau khi cải thiện lâm sàng, có thể chuyển sang điều trị bằng itraconazole. Đối với bệnh nhẹ đến trung bình không thương tổn hệ thần kinh trung ương và không cần nhập viện, itraconazole là phương pháp điều trị được khuyến nghị.

(Xem thêm Tổng quan về Nhiễm nấm.)

Vùng dịch tế của Blastomycosis là Bắc Mỹ

  • vùng thung lũng sông Ohio-Mississippi (kéo dài đến giữa Đại Tây Dương và các bang phía đông nam)

  • Bắc Trung bộ

  • Các bang phía trên New York

  • Nam Canada

Vài trường hợp nhiễm trùng hiếm gặp xảy ra ở Trung Đông và Châu Phi.

Những người không đủ khả năng miễn dịch có thể mắc bệnh nhiễm trùng này. Mặc dù bệnh do blastomyces có thể phổ biến hơn và nặng hơn ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, nhưng đây là một bệnh nhiễm trùng cơ hội ít gặp hơn so với bệnh do nấm histoplasma hoặc bệnh do nấm coccidioides.

B. dermatitidis phát triển như một nấm mốc ở nhiệt độ môi trường xung quanh trên đất giàu đạm và ẩm ướt từ phân của gia súc, trong vật liệu đang phân hủy, vật liệu hữu cơ có tính axit, thường là gần sông.

Trong phổi, các bào tử hít vào chuyển đổi thành các loại nấm men xâm lấn lớn (15 micro-mét đến 20 micro-mét), tạo thành các chồi có thân rộng đặc trưng.

Sau khi nhiễm vào phổi

  • Nhiễm trùng có thể khu trú tại phổi

  • Lan theo đường máu

Nhiễm nấm lan theo đường máu có thể gây tổn thương khu trú tại nhiều cơ quan, bao gồm da, tuyến tiền liệt, tinh hoàn, túi tinh, thận, đốt sống, đầu xương dài, mô dưới da, hệ thần kinh trung ương, niêm mạc miệng hoặc mũi, tuyến giáp, hạch bạch huyết và tủy xương.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh nấm sâu Blastomyces

Bệnh do nấm blastomyces ở phổi

Nhiễm Blastomycosis phổi có thể không có triệu chứng hoặc gây bệnh cấp tính, tự khỏi mà không nhận ra. Nó cũng có thể bắt đầu một cách âm thầm và phát triển thành nhiễm trùng mạn tính tiến triển. Các triệu chứng bao gồm ho khan, đau ngực, khó thở, sốt, ớn lạnh, và đổ mồ hôi.

Tràn dịch màng phổi thỉnh thoảng xảy ra.

Tràn dịch màng phổi có thể xảy ra Một số bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng diễn biến nhanh gây Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển.

Bệnh do nấm blastomycex lan tỏa ngoài phổi

Trong nhiễm trùng lan tỏa ngoài phổi, triệu chứng phụ thuộc vào cơ quan có liên quan.

Tổn thương da là vị trí nhiễm trùng lan tỏa hay gặp hơn hẳn so với các vị trí khác;đơn lẻ hoặc nhiều tổn thương; kèm hoặc không kèm biểu hiện lâm sàng tại phổi. Nốt sần hoặc mụn mủ sần thường xuất hiện trên bề mặt da và lan chậm. Áp xe nhỏ, không đau phát triển ở rìa tiến triển. Mụn cóc dạng nhú không đều có thể có trên bề mặt da. Đôi khi có thể có phỏng nước. Khi các tổn thương lớn hơn, vùng trung tâm sẽ lành lại, tạo thành các vết sẹo. Khi phát triển đầy đủ, tổn thương cơ bản có dạng mảng mụn cóc gờ lên, rộng thường 2 cm với viền xung quanh dốc, màu đỏ tía, vây quanh áp-xe. Loét có thể xảy ra nếu nhiễm thêm vi khuẩn.

Hình ảnh bệnh do Blastomyces ngoài phổi
Nhiễm nấm blastomyces ngoài phổi (loét kèm theo các áp xe rất nhỏ)
Nhiễm nấm blastomyces ngoài phổi (loét kèm theo các áp xe rất nhỏ)

    Hình ảnh này cho thấy một tổn thương loét da gồ lên, đóng vảy, có bờ không đều kèm theo các áp xe rất nhỏ ở ngoại vi của tổn thương.

... đọc thêm

© Springer Science+Business Media

Nhiễm nấm blastomyces (bọng nước)
Nhiễm nấm blastomyces (bọng nước)

    Nhiễm nấm blastomyces ngoài phổi có thể có biểu hiện ở da hoặc ở bộ phận sinh dục. Tổn thương da biểu hiện dưới dạng sẩn, mụn mủ hoặc bọng nước. Bức ảnh này cho thấy một tổn thương da bọng nước.

... đọc thêm

Hình ảnh từ Thư viện Hình ảnh Y tế Công cộng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh.

Nhiễm nấm blastomyces ngoài phổi (trông như mụn cóc)
Nhiễm nấm blastomyces ngoài phổi (trông như mụn cóc)

    Nhiễm nấm blastomyces ngoài phổi có thể xảy ra ở da hoặc ở bộ phận sinh dục. Các tổn thương trên da có thể phát triển các nhú giống mụn cơm hoặc trông như mụn cóc. Bức ảnh này cho thấy một tổn thương da như mụn cóc.

... đọc thêm

Hình ảnh của www.doctorfungus.org © 2005.

Nếu có tổn thương xương, phần mềm phía trên có thể sưng nóng mềm.

Các tổn thương bộ phận sinh dục ở nam giới thường gây viêm tuyến tiền liệt và viêm mào tinh hoàn kèm theo sưng mào tinh hoàn gây đau, cảm giác khó chịu sâu vùng đáy chậu hoặc đau tuyến tiền liệt được phát hiện khi khám trực tràng. Tổn thương bộ phận sinh dục ở phụ nữ ít gặp hơn và có thể gây áp xe vòi trứng, viêm nội mạc tử cung và viêm vòi trứng.

Nhiễm trùng hệ thân kinh TW có thể biểu hiện như áp xe não, áp xe ngoài màng cứng hoặc viêm màng não.

Chẩn đoán bệnh nấm sâu Blastomyces

  • X-quang ngực

  • Soi và cấy nấm

  • Kháng nguyên blastomyces trong nước tiểu và trong huyết thanh

Nếu nghi ngờ blastomycosis nên chỉ định chụp X-quang phổi. Thâm nhiễm khu trú hoặc lan tỏa có thể có, đôi khi như viêm phế quản-phổi loang lổ phát ra từ hilum. Những phát hiện này phải được phân biệt với các nguyên nhân gây viêm phổi khác (ví dụ: vi khuẩn, các bệnh nấm khác, bệnh lao, khối u). Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh do nấm blastomyces ở phổi có thể không thể phân biệt được với bệnh viêm phổi do vi khuẩn, điều này có thể dẫn đến chẩn đoán chậm trễ.

Tổn thương da có thể bị nhầm lẫn với bệnh nấm sportrichum, bệnh lao hoặc ung thư biểu mô tế bào đáy. Thương tổn bộ phận sinh dục có thể giống bệnh lao.

Chẩn đoán có thể được xác định bằng nuôi cấy mẫu bị nhiễm bệnh. Nuôi cấy Blastomyces có thể gây nguy hiểm sinh học nghiêm trọng cho nhân viên phòng thí nghiệmnên phòng thí nghiệm cần được thông báo về chẩn đoán khi có nghi ngờ. Phát hiện hình thái đặc trưng của nấm khi soi trực tiếp mô hoặc đờm cũng thường được dùng để chẩn đoán.

Xét nghiệm huyết thanh học có độ nhạy thấp nhưng hữu ích nếu xét nghiệm dương tính.

Xét nghiệm kháng nguyên trong nước tiểu và trong huyết thanh rất hữu ích nhưng khả năng phản ứng chéo với Histoplasma cao.

Các xét nghiệm chẩn đoán phân tử (ví dụ: phản ứng chuỗi polymerase [PCR]) có thể hỗ trợ chẩn đoán.

Điều trị bệnh nấm sâu Blastomyces

  • Đối với bệnh nhẹ đến trung bình, itraconazol

  • Đối với nhiễm trùng nặng, đe dọa tính mạng, amphotericin B

Nhiễm nấm blastomyce không điều trị thường tiến triển chậm và hiếm khi gây tử vong.

Điều trị nhiễm nấm blastomyce phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh.

Đối với bệnh nhẹ đến trung bình không thương tổn ở hệ thần kinh trung ương và không cần nhập viện, dùng itraconazol 200 mg uống 3 lần/ngày trong 3 ngày, tiếp theo là 200 mg uống một lần/ngày hoặc 2 lần/ngày trong 6 tháng đến 12 tháng (1). Fluconazol cho thấy kém hiệu quả hơn, nhưng có thể thử dùng liều 400 mg đến 800 mg uống một lần/ngày ở những bệnh nhân bị bệnh nhẹ, không dung nạp itraconazol.

Với nhiễm trùng nặng, đe dọa đến tính mạng, amphotericin B đường truyền có hiệu quả. Hướng dẫn 2008 của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ khuyến nghị công thức bào chế có lipid của amphotericin B với liều 3 đến 5 mg/kg một lần/ngày hoặc amphotericin B deoxycholate 0,7 đến 1,0 mg/kg một lần/ngày trong 1 tuần đến 2 tuần. hoặc cho đến khi ghi nhận cải thiện.

Phác đồ điều trị chuyển xuống itraconazole đường uống hàng ngày khi tình trạng bệnh nhân cải thiện; liều 200 mg 3 lần một ngày trong 3 ngày, sau đó 200 mg hai lần một ngày, uống 12 tháng.

Bệnh nhân mắc bệnh do nấm blastomyces ở hệ thần kinh trung ương, bệnh nhân mang thai và bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch cần phải được điều trị bằng amphotericin B theo đường tĩnh mạch (tốt nhất là amphotericin B có hạt mỡ), sử dụng cùng lịch trình dùng thuốc như đối với nhiễm bệnh đe dọa tính mạng.

Voriconazole, isavuconazonium và posaconazole có hoạt tính chống lại B. dermatitidis, nhưng dữ liệu lâm sàng còn hạn chế và vai trò của các loại thuốc này vẫn chưa được xác định.

Tài liệu tham khảo về điều trị

  1. 1. Chapman SW, Dismukes WE, Proia LA, et al: Clinical practice guidelines for the management of blastomycosis: 2008 update by the Infectious Diseases Society of America. Clin Infect Dis 46(12):1801-1812, 2008 doi:

Những điểm chính

  • Hít các bào tử của nấm lưỡng hình Blastomyces chủ yếu gây bệnh phổi; nhiễm trùng lan tỏa ít gặp hơn (thường gặp ở da).

  • Ở Bắc Mỹ, vùng dịch tễ của blastomycosis là xung quanh Hồ Great Lakes và thung lũng sông Ohio-Mississippi (kéo dài đến giữa bang Atlantic và các bang miền đông nam).

  • Chẩn đoán bằng nuôi cấy mô tổn thương; xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu nhưng độ nhạy thấp.

  • Đối với bệnh nhẹ đến trung bình, sử dụng itraconazole.

  • Đối với bệnh nặng, dùng amphotericin B.

Thông tin thêm

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

  1. Infectious Diseases Society of America: Practice Guidelines for the Management of Blastomycosis (2008)