Múa giật, múa vờn, múa vung nửa người

TheoAlex Rajput, MD, University of Saskatchewan;
Eric Noyes, MD, University of Saskatchewan
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 2 2024

    Múa giật là những chuyển động ngẫu nhiên, trôi chảy, không thể kìm nén được, chủ yếu là ở các cơ đầu xa và mặt; các cử động có thể được kết hợp thành các hành động bán mục đích nhằm che giấu các cử động không tự nguyện. Múa vung (múa giật chậm) là vận động không nhịp nhàng, chậm, quằn quại, vặn vẹo, chủ yếu ở các cơ ngọn chi, thường luân phiên tư thế của gốc chi. Bệnh múa vung nửa người là vận động gốc chi trên/dưới nhanh không đối xứng, không nhịp nhàng, không dừng được, đung đưa vô thức; hiếm khi đối xứng (múa vung toàn thân). Múa vung nửa người có thể được coi là một dạng múa giật nghiêm trọng.

    (Xem thêm Tổng quan về Rối loạn vận động và tiểu não.)

    Múa giật và múa vờn là kết quả của sự suy giảm sự ức chế của các tế bào thần kinh vùng đồi thị bởi hạch nền. Cơ chế có thể do sự hoạt động quá mức hệ dopaminergic.

    Các bác sĩ lâm sàng nên tìm và điều trị nguyên nhân gây múa giật bất cứ khi nào có thể.

    Bệnh Huntington là bệnh lý thoái hóa phổ biến nhất gây ra múa giật. Trong bệnh Huntington, các thuốc ức chế hoạt động của dopaminergic, chẳng hạn như thuốc chống loạn thần (ví dụ: risperidone, olanzapine) và thuốc làm suy giảm dopamine (ví dụ: deutetrabenazine, reserpine [không còn bán ở Hoa Kỳ], tetrabenazine) có thể được sử dụng để điều trị chứng múa giật. Thuốc chống loạn thần cũng có thể giúp giảm các triệu chứng thần kinh tâm thần thường gặp liên quan đến bệnh Huntington (ví dụ như sự bốc đồng, lo lắng, hành vi tâm thần). Tuy nhiên, cải thiện thường hạn chế và thoáng qua. Tất cả các loại thuốc này có thể được sử dụng một cách thận trọng để điều trị múa giật mà không có nguyên nhân xác định.

    Nguyên nhân khác của múa giật bao gồm

    Múa giật Sydenham (Chorea Sydenham) có sốt nhẹ có thể là triệu chứng đầu tiên của bệnh này. Một khối u hoặc nhồi máu vùng thanh mạc (caudate hoặc putamen) có thể gây ra chứng múa giật một bên cấp tính (hemichorea) ở phía đối diện của cơ thể. Múa giật Sydenham và múa giật do nhồi máu nhân đuôi thường giảm đi theo thời gian mà không cần điều trị.

    Múa giật do cường giáp hoặc một nguyên nhân chuyển khóa khác (ví dụ, tăng đường huyết) thường giảm khi chức năng tuyến giáp hoặc mức đường huyết được bình thường hóa. Nếu chứng múa giật không giảm sau vài tuần kiểm soát trao đổi chất, bác sĩ lâm sàng nên kiểm tra các nguyên nhân khác như đột quỵ.

    Múa giật ở bệnh nhân > 60 không nên được coi là múa giật do tuổi già nhưng cần được đánh giá kỹ lưỡng để xác định nguyên nhân (ví dụ: nhiễm độc, chuyển hóa, tự miễn, dị sản).

    Múa giật trong thai kỳ là múa giật xảy ra trong thời kỳ mang thai. Mặc dù múa giật trong thai kỳ có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng tình trạng này thường xảy ra ở những bệnh nhân mang thai bị sốt thấp khớp. Múa giật thường bắt đầu trong ba tháng đầu tiên và tự khỏi trong hoặc sau khi sinh. Việc xác định nguyên nhân múa giật nên được theo đuổi theo chỉ định lâm sàng. Rối loạn tương tự có thể xảy ra ở phụ nữ dùng thuốc tránh thai.

    Bệnh múa vung nửa người là do một tổn thương, thường là một ổ nhồi máu, trong hoặc xung quanh nhân dưới đồi bên cạnh. Mặc dù gây tàn phế nhưng chứng bóng đè thường tự giới hạn, kéo dài từ 6 đến 8 tuần. Nếu nghiêm trọng, nó có thể được điều trị bằng thuốc chống loạn thần trong 1 đến 2 tháng hoặc, nếu thuốc chống loạn thần không hiệu quả, kích thích não sâu.